VC-Thiền quán

Vấn đề bác đặt ra, đây cũng là vấn đề đang tìm câu trả lời.......vậy xin quan điểm hai bác GIailang/ Don về:

+ THeo như quan điểm đạo tổ tiên ông bà (*nho giáo)....thì địa táng tốt hơn, khi chết thì người thân khóc...nhức mắt...để người đó..tự nhiên ra đi thanh thản (*vì còn an trú trong xương một thời gian khá dài, và người đó thấy người thân có...thương mình). theo cái này thì..nếu hoả táng..mà người đó ...công quả không lớn..đủ nhận thức xa lìa old body...sẽ cảm nhận sự thiêu đốt rất đau đớn..như bị die do hoả hoạn vậy

+ THeo đạo phật thì lại đề cao hoả táng...để từ bỏ hết cái cũ, các tính...không tốt, mà làm lại ván mới. người thân nên cười vui vẻ....

Vậy với trình độ, kinh nghiệm.....xin hai bác cho AE sở mục biết......cái nào là phương án tối ưu? (hoả táng?-địa táng?) ..với người bình thường hiiiiiiii

Hỏa táng hay địa táng thì cũng chỉ là phương pháp. Theo suy nghĩ của tôi, mỗi người là một vật thể có cấu trúc đặc trưng, có trao đổi chất tích cực với môi trường khi còn sống, và trao đổi chất thụ động sau khi chết đi mà chưa phân hủy hết. Mỗi người sẽ có một cấu trúc trao đổi riêng biệt, cấu trúc đó bao gồm các liên kết năng lượng với môi trường xung quanh. Sau khi chết, các liên kết này chưa bị phá vỡ ngay, nên có thể có một số trường hợp đặc biệt người ta còn nhìn thấy ảnh của cấu trúc liên kết năng lượng đó mặc dù xác đã chôn sâu (6 feet under). Cái ảnh đó được gọi là bóng ma. Đặc biệt của đặc biệt, có thể còn lại tàn dư của cấu trúc thông tin đặc trưng cho người đó còn lại, là cái mà tôn giáo gọi là thần thức.

Luật của tự nhiên là tuần hoàn (phật giáo gọi là luân hồi), là quá trình liên kết các phân tử tự do thành các cấu trúc hoặc phân hủy cấu trúc đó tùy theo điều kiện môi trường, có lúc là ngẫu nhiên (phật giáo gọi là duyên) có lúc là kết quả của một hoặc nhiều sự kiện tất yếu khác phối hợp (phật gọi là nhân quả). Nên thực ra đến đọan này, có sự tương đồng hoàn toàn về khái niệm triết học của PG và quy luật tự nhiên.

Sau khi não chết, nếu thần kinh thực vật chưa chết, cái xác có thể vẫn còn cảm giác như khi sống. Tuy nhiên, sự chết là quy luật một chiều của các tế bào lão hóa, nên một khi não đã chết thì không thể hồi sinh được nữa, có cố cũng chỉ là zombie. Vào thời điểm này, đẩy nhanh quá trình chết lại là đạo đức với người ra đi.

Phật giáo vốn bắt nguồn từ Ấn độ là nơi có tập tục hỏa táng trước khi tôn giáo này ra đời. Hỏa táng là cách mà các tín đồ tin rằng thuận với luân hồi nhất, kết thúc nhanh chóng nghiệp hiện tại để chuyển kiếp nhanh hơn. Theo con mắt khoa học, quá trình chuyển hóa hòan tòan bằng hỏa táng cũng giúp cho tự nhiên bắt đầu vòng quay tuần hòan nhanh hơn.

Tín ngưỡng người Việt nam vốn quen địa táng, vì cho rằng có mỗi liên hệ giữa người nằm xuống với các thế hệ sau. Giả sử cấu trúc thông tin đặc trưng của người đã khuất không bị tiêu hủy hòan tòan, thì đây cũng là một khả năng có thể. Nhưng ở góc độ những người quan niệm cuộc sống là nơi sống hết mình, chết cũng hết mình thì có lẽ họ thích hỏa táng hơn là địa táng.

Vậy chọn cách nào hoàn tòan do quan niệm và lựa chọn.
 
@giai làng: Em đã xóa đi vì lo mọi người sợ bác lại lôi ra, để hết hôm nay thì xóa đi...vì không hay lắm. Cái em nói kể trên không phải là sách....:D. Vì say mê trao đổi em mới nói ra thôi. Bác xóa đi giùm...8-x

Tất cả các ánh sáng đó đều không thật...nên cần định tâm và an trụ. Đó là câu kết.....

@Thietbang chủ: Sách có nhiều loại...Không đơn giản như lão nói, phải hành đúng cái này, nếu đọc mà tự hành thì rât nguy hiểm, vì chẳng có ai vỗ vai cho lão tỉnh đâu... Sách tử thư bán đầy đường em có xem qua nhưng có đạo hữu cao hơn nói rằng: Nếu dịch sai... thì hậu quả khôn lường ( Không đùa được đâu lão nhé)

Em vẫn nói dù là người có căn cơ đến đâu cũng phải có người thầy thực chứng giác ngộ truyền dạy, chỉ bảo uốn nắn cho đúng không dễ bị sai đường....

G/L

Lão cứ yên tâm. không có ai sợ tui cả, nếu sợ họ đã không đối xử thân tình với tui như hiện nay. Và tui đã xóa ngay từ sáng.

Chúc lão luôn an trú, đó là dấu hiệu chắc chắn của định. Một khi ở chỗ nào, lúc nào cũng an trú được, nghĩa là lão đã đi theo đúng đường của Avalokiteshvara, vì Quán Tự Tại chính là một pháp hiệu của ngài.
 
Vì nếu không định tâm và an trụ, thì những thứ kia sẽ trở nên rất thật :))

Không định không an trú thì sẽ chạy theo, đó cũng là quy luật dễ hiểu đại sư nhỉ ...

Như "tôi tin vào quyền năng của Thượng Đế" nhưng lại ko tin có "ma" :) theo logic này, nếu đã có Thượng đế là thế lực đại diện cho "The good" thì sẽ có thế lực đối đầu "The Bad" là Ma quỷ chứ nhỉ? :) Thật ra đó chỉ là suy nghĩ nhị nguyên xuất phát từ "logic" của con người. Ko có Thượng đế, cũng ko thánh thần thế lực nào có thể cứu giúp cho mình , bởi đơn giản là chính TD cũng đang phải vật lộn để giải độ cho chính his soul. Tha thứ cho em vì suy nghĩ này nhé :)
 
Lão cứ yên tâm. không có ai sợ tui cả, nếu sợ họ đã không đối xử thân tình với tui như hiện nay. Và tui đã xóa ngay từ sáng.

Chúc lão luôn an trú, đó là dấu hiệu chắc chắn của định. Một khi ở chỗ nào, lúc nào cũng an trú được, nghĩa là lão đã đi theo đúng đường của Avalokiteshvara, vì Quán Tự Tại chính là một pháp hiệu của ngài.

Thật là đáng yêu! :)

Bác GL đọc nối vần, em đọc thì lại nghỉ 1 nhịp ở giữa 2 chữ "sợ" - "bác"

No, ko ai sợ bác, mà quý bác!
 
Cho Em cóp cái này nhé Win ca. :)

"Sự hiện hữu của chúng sinh đã bị điều kiện hóa bởi sự sinh, sự chết, và sự chuyển tiếp từ cái chết sang sự tái sinh. Sức khởi động không ngưng nghỉ của nghiệp lực đã làm cho đời sống vô thường. Chúng ta liên tục luân hồi xuyên qua những trạng thái khác nhau của hữu thể, và trong pháp môn p’howa thì cách hữu dụng nhất để hiểu chúng là trong cách phân loại của sáu thân trung ấm, tức là các trạng thái trung gian.

........

@bác MTP, em đã định từ lần nhắc đến "Trung ấm" đầu tiên với bác, nhưng chưa có cơ hội đc nghe bác bàn thêm.
 
......

Thân trung ấm nơi sinh (birthplace bardo) bắt đầu từ khoảnh khắc chào đời, và kết thúc khi từ trần. Nó chỉ cho kiếp sống của chúng sinh, và với kiếp người thì đây là cơ hội tối thắng để tu tập - có khả năng để làm thanh tịnh các nghiệp xấu và thu thập công đức và sự giác ngộ nhằm giải thoát khỏi luân hồi và hướng dẫn các chúng sinh khác tới giải thoát.

Thân trung ấm nơi sinh trong cõi người thường xen lẫn bởi hai thân trung ấm khác, thân trung ấm chiêm bao (dream bardo) và thân trung ấm của thiền định (bardo of meditative concentration). Cả hai thân này dung chứa tiềm năng cho các trạng thái thâm sâu của tâm thức, mặc dù với hầu hết mọi người, chúng chỉ giữ trong khoảng thời gian ngắn. Hệt như thân trung ấm nơi sinh, chúng có thể được vận dụng cho sự tiến bộ tinh thần.

.........
 
........

Tiến trình chết xảy ra trong thân trung ấm của khoảnh khắc lìa đời (bardo of the moment of death), nó tiếp cận với hơi thở cuối cùng và sự hợp nhất vào luân xa quả tim của các năng lực nam (dương) và năng lực nữ (âm) nguyên thủy của chúng sinh đó. Thân trung ấm này có thể rất ngắn ngủi; nếu người này gặp cái chết chưa đúng thời bởi vì tai nạn hay vì bạo lực, hay là nó có thể được kéo dài, nếu người này chết vì căn bệnh dằng dai. Thân trung ấm của khoảnh khắc lìa đời là chặng chuyển tiếp chủ yếu trong chu kỳ luân hồi, bởi vì đó là lúc pháp môn p’howa có thể thành tựu được và sự giải thoát vào cõi tịnh độ có thể đạt được dễ dàng. Tuy nhiên, để thành tựu p’howa, học nhân nên tu tập kỹ lưỡng khi còn trong thân trung ấm nơi sinh, bởi vì tâm thức hỗn loạn thường gây mê mờ vào thời điểm chết.
 
Last edited by a moderator:
...........

Đối với hầu hết mọi người, thân trung ấm của chân tánh của vạn pháp (Anh ngữ: bardo of the true nature of phenomena; Tây Tạng ngữ: chos nyid; Phạn ngữ: dharmata) khởi đầu khi họ rơi vào màn tối đen, sau khi các năng lực nam và nữ hợp nhất trong quả tim. Các thiền sư vĩ đại nào có thể duy trì tỉnh thức trong suốt thời chuyển tiếp của cái chết sẽ không rơi vào màn tối đen này. Trong thời khoảng này, các phẩm chất của tâm được buộc vào trong tự tánh bất khả hủy diệt, vào trong tận nguồn vi tế nhất của tâm thức và sự hồn nhiên. Các phẩm chất của tâm về tánh biết - tám phương diện của ý thức - thì hiện hữu như là quả cầu cốt yếu của ý thức. Đặc tính di động của tâm thì hiện hữu như là các năng lực nghiệp thức cực kỳ vi tế (tức là “các gió”; Tạng Ngữ là lung), các lực này quấy động các phần tử của ý thức. Sự quấy động nhẹ này làm mê mờ ý thức, và ánh sáng trong suốt của thật tánh của vạn pháp khởi lên như một trạng thái bất nhị, bất khả diễn tả của Tánh Biết.
 
.........

Tất cả chúng sinh, từ bất kỳ cảnh giới nào của đời sống, có một kinh nghiệm chớp nhoáng về tia sáng trong suốt khi họ chết, nhưng đối với hầu hết, nó qua đi trong khoảnh khắc mà không được ghi nhận. Chỉ có các đại thiền giả - những người đã chứng nhập cái nhìn cao nhất qua các pháp thiền của Đại Toàn Thiện, Đại Thủ An, Trung Quán - có khả năng để tìm giải thoát vào pháp thân, để thành đạt giác ngộ, xuyên qua việc chứng nhập ánh sáng trong suốt.
 
.........

Đối với những người khác, sự giải thoát bị ngăn trở bởi một sự thúc giục về hướng “đầu thai” và một nỗi sợ bị hư vô hóa. Các phương diện vi tế của ý thức, bị quấy động thêm nữa bởi các năng lực tế vi, dẫn khởi lên các hiện tướng thanh tịnh của Tánh Biết, sự xuất hiện các vị Thánh hiền hòa và hung dữ. Ánh sáng khởi lên, cùng với các âm thanh cuồng nộ. Và rồi các hình tướng xuất hiện từ ánh sáng đó, trước tiên hiện ra như các vị Thánh đầy giận dữ cùng với tiếng cười gây kinh hãi. Mỗi vị mặc trang phục riêng đặc biệt và được đi kèm bởi một đoàn hội chúng dầy đặc tới đầy khắp không gian. Rồi các vị Thánh hiền hòa xuất hiện - trong đó có các vị bổn tôn của pháp môn p’howa là Phật A Di Đà, Quan Thế Âm Bồ Tát, và Phật Vô Lượng Thọ - sáng rực và đầy kính ngưỡng.

Bất kỳ ai đã tu tập pháp quán tưởng, những ai đã thấy vị bổn tôn chỉ là hóa hiện tự tâm mình, có thể giải thoát được vào cảnh giới Báo thân. Đối với những người khác, sự hóa hiện của các vị Thánh hiền hòa và hung dữ sẽ chớp qua đi. Những người khác sẽ lùi xa khỏi khối sáng rực đó, và những hình ảnh và âm thanh của các vị bổn tôn sẽ biến dạng.
 
.......

Bây giờ xuất hiện một chuỗi bốn chùm ánh sáng màu, mỗi chùm là hai độ rực rỡ, tập trung trên đầu như một chiếc dù - trước tiên là màu trắng, rồi xanh-đen, vàng, và đỏ. Sau khi chuỗi ánh sáng này hiển lộ, ánh sáng mang nhiều hình dạng khác nhau. Rồi một hình ảnh khởi lên như một sơ đồ thế giới, với các mạn đà la của tam thân (Pháp thân, Báo thân, Sắc thân) và dưới các mạn đà la, là sáu cõi chúng sinh. Sơ đồ này rất trong sáng và chi tiết, và nếu có ai thấy được bản tánh của tam thân, thì người đó giải thoát. Nếu chúng sinh nào tránh né khỏi các tia sáng chói lọi và bị thu hút về các tia mờ, nếu chúng sinh nào không thấy bản tánh của mạn đà la tam thân và bị thu hút về sáu cõi, thì các hình ảnh nhạt dần, và thân trung ấm của thực tánh của vạn pháp chấm dứt.
 
.......

Thân trung ấm của sự trở thành (Anh ngữ: bardo of becoming; Tạng ngữ: sidpa bardo) thì như một giấc mơ. Nếu có ai đã tập thiền trong kiếp trước của mình đủ vững vàng để nhớ tới vị thầy của mình hay vị bổn tôn đã chọn, thì sự giải thoát vào sắc thân [Phật] vẫn có thể thành tựu. Nếu chúng sinh này đã quên đi niềm tin trước đó của mình, và không có thể tái thiết lập thiền định, thì đau đớn lớn xảy ra. Thân trung ấm của sự trở thành là một nơi hoang vắng, nơi bầu trời mang mầu xám, không có mặt trời hay mặt trăng, không có nước hay lương thực, và chúng sinh trải qua đủ loại kinh nghiệm hãi hùng, như bị rượt đuổi bởi các nhóm thù nghịch hay là thú rừng, hay là rơi từ các đỉnh núi khi chúng biến thành các trận tuyết lở. Chúng sinh trải qua những kinh nghiệm này dường như chúng sinh này đã mang thân người và không có ký ức gì về sự hấp hối, không có ký ức gì về thân trung ấm của giây phút lìa trần, cũng như về thân trung ấm của bản tánh thật của vạn pháp.

Chúng sinh vào thân trung ấm của sự trở thành trong một thân thần-thức (mental body). Năng lực của 5 phần tử (ngũ uẩn) hòa lẫn với các phương diện vi tế của ý thức và các năng lực vi tế của thân thần-thức, làm cho nó dày đặc hơn. Năm uẩn phát triển tới điểm mà các thân trung ấm có thể nhìn thấy, và được nhìn thấy bởi các thân trung ấm khác và bởi các vị trong các cảnh giới khác có khả năng thần thông. Các bộ phận cảm quan (của thân trung ấm) hình thành, và cần có dưỡng chất, điều này được tiếp nhận trong hình thức mùi hương. Các thân trung ấm không bao giờ ở lâu một nơi, bởi vì, trong trạng thái không cân nặng này, các thân trung ấm tức khắc được mang tới bất cứ nơi nào mà họ mong muốn.
 
Last edited by a moderator:
......

Khi các uẩn dày đặc hơn, thì sự mong muốn, sự ghen tị và sự giận dữ của các thân trung ấm càng tăng. Họ nhìn thấy chúng sinh nơi 6 cõi, và muốn những gì mà các chúng sinh đó có. Khát vọng tìm một hình tướng trở thành khẩn cấp, và điều này lôi cuốn họ gần thêm tới cõi phù hợp với nghiệp lực của họ. Nếu ý thức của họ mang sự căm thù và giận dữ giết chóc, thì những cảm xúc này, được triển nở đầy đủ, dẫn tới tái sinh trong cảnh giới địa ngục. Nếu nhiều khát vọng và tham lam, khuynh hướng này khi phát triển đầy đủ sẽ dẫn tới tái sinh trong cõi quỷ thần. Sự ngu dốt và trực giác mù quáng dẫn tới tái sinh trong cảnh giới thú vật. Tính ghen tị và tính cạnh tranh, kết hợp với vài đức hạnh, dẫn tới tái sinh trong cõi bán thiên (demigod realm), trong khi sự hãnh diện hay mê luyến niềm vui thiền định, cùng với đức hạnh, dẫn tới các tầng chư thiên cõi dục giới. Thiền định bị mê luyến vào sự trong sáng - viễn kiến, tiên tri và tương tự - dẫn tới tái sinh trong cảnh giới sắc tướng của chư thiên. Thiền định bị mê luyến bởi sự ổn định dẫn tới tái sinh trong cõi trời vô sắc.

Tái sinh trong cõi người là do kết quả tổng hợp của công đức, kết tập từ các việc làm từ bi, và các điều xấu, khởi lên từ ngũ độc. Hoàn cảnh tái sinh vào cõi người - hoặc là người này sẽ giàu hay nghèo, khỏe hay yếu, thông minh hay khờ khạo, tất cả các cực này và khoảng giữa chúng - tùy thuộc chính xác vào tổng hợp nghiệp thiện và nghiệp ác của người đó. Các biến đổi cũng vô tận, bởi vì ảnh hưởng nghiệp thức thì không ngưng nghỉ.

........./.
 
Thân thể con người vốn do tứ đại (địa, thủy, hỏa, phong = thân thức; tâm thức = khí) hợp thành, do vậy khi chết sắc thân tứ đại phân tán, còn phần tinh thần thì không mất mà tùy nghiệp thọ báo.

Trạng thái khi bốn đại phân ly:

1) Trạng thái địa đại lấn áp thủy đại:

Toàn thân người đều cảm giác nặng nề, mỏi mệt lấn áp vào toàn tạng phủ cho đến các lóng đốt lẫn đến từng tế bào, nỗi đau đớn áp bức gây chướng ngại không sao tả được, thể hiện qua chân tay co rút, gân mạch run rẩy, đó là trạng thái địa đại lấn áp thủy đại.

2) Trạng thái thủy đại lấn áp hỏa đại:

Hơi lạnh truyền khắp trong thân thể rồi thấm vào cốt tủy, nội tạng rung động, gan ruột đều giá lạnh, dù cho lửa lò cũng không trừ được. Dù nằm trên băng tuyết nỗi lạnh không bằng một phần trong muôn phần của trạng thái thủy đại lấn áp hỏa đại, bệnh nhân nhan sắc nhợt nhạt, hơi thở khò khè, thân mình run rẩy.

3) Trạng thái hỏa đại lấn áp phong đại:

Lúc đó sinh cơ lui mất hơn phân nửa, sức chống chọi giảm rất nhanh, khổ lại tăng lên càng nhiều, trong ngũ tạng ngoài tứ chi, khác nào nung nướng từng lóng đốt như bị cắt chặt đau đớn quá nên cứng đơ như thẻ gỗ.

Khi đó nét mặt ửng đỏ, tinh thần tối tăm, hơi thở ra thì nhiều, hít vào thì ít. Đó là trạng thái hỏa đại lấn áp phong đại.

4) Trạng thái phong đại phân ly:

Lúc đó thân thể người bệnh bỗng nhiên cảm thọ một thứ gió mãnh liệt thổi bạt thân thể tan nát như vi trần, hết sức đau đớn rã rời. Khi ấy bốn đại phân ly, sáu căn bại hoại, chỉ còn nghiệp thức tùy theo nghiệp lực đã tạo tác lúc còn sống mà thọ sanh.
 
Last edited by a moderator:
Hỏa táng hay địa táng thì cũng chỉ là phương pháp. Theo suy nghĩ của tôi, mỗi người là một vật thể có cấu trúc đặc trưng, có trao đổi chất tích cực với môi trường khi còn sống, và trao đổi chất thụ động sau khi chết đi mà chưa phân hủy hết. Mỗi người sẽ có một cấu trúc trao đổi riêng biệt, cấu trúc đó bao gồm các liên kết năng lượng với môi trường xung quanh. Sau khi chết, các liên kết này chưa bị phá vỡ ngay, nên có thể có một số trường hợp đặc biệt người ta còn nhìn thấy ảnh của cấu trúc liên kết năng lượng đó mặc dù xác đã chôn sâu (6 feet under). Cái ảnh đó được gọi là bóng ma. Đặc biệt của đặc biệt, có thể còn lại tàn dư của cấu trúc thông tin đặc trưng cho người đó còn lại, là cái mà tôn giáo gọi là thần thức.

Luật của tự nhiên là tuần hoàn (phật giáo gọi là luân hồi), là quá trình liên kết các phân tử tự do thành các cấu trúc hoặc phân hủy cấu trúc đó tùy theo điều kiện môi trường, có lúc là ngẫu nhiên (phật giáo gọi là duyên) có lúc là kết quả của một hoặc nhiều sự kiện tất yếu khác phối hợp (phật gọi là nhân quả). Nên thực ra đến đọan này, có sự tương đồng hoàn toàn về khái niệm triết học của PG và quy luật tự nhiên.

Sau khi não chết, nếu thần kinh thực vật chưa chết, cái xác có thể vẫn còn cảm giác như khi sống. Tuy nhiên, sự chết là quy luật một chiều của các tế bào lão hóa, nên một khi não đã chết thì không thể hồi sinh được nữa, có cố cũng chỉ là zombie. Vào thời điểm này, đẩy nhanh quá trình chết lại là đạo đức với người ra đi.

Phật giáo vốn bắt nguồn từ Ấn độ là nơi có tập tục hỏa táng trước khi tôn giáo này ra đời. Hỏa táng là cách mà các tín đồ tin rằng thuận với luân hồi nhất, kết thúc nhanh chóng nghiệp hiện tại để chuyển kiếp nhanh hơn. Theo con mắt khoa học, quá trình chuyển hóa hòan tòan bằng hỏa táng cũng giúp cho tự nhiên bắt đầu vòng quay tuần hòan nhanh hơn.

Tín ngưỡng người Việt nam vốn quen địa táng, vì cho rằng có mỗi liên hệ giữa người nằm xuống với các thế hệ sau. Giả sử cấu trúc thông tin đặc trưng của người đã khuất không bị tiêu hủy hòan tòan, thì đây cũng là một khả năng có thể. Nhưng ở góc độ những người quan niệm cuộc sống là nơi sống hết mình, chết cũng hết mình thì có lẽ họ thích hỏa táng hơn là địa táng.

Vậy chọn cách nào hoàn tòan do quan niệm và lựa chọn.

Theo sự hiểu non nớt của em là thể chất là do các chất hữu cơ và các phản ứng đa chuyền tạo thành thân, do địa táng - cần 1 khoảng thời gian phân hủy hết. và cái "ảnh" mà mình gọi là "ma" có lẽ là do sự phân tán và phá vỡ cấu trúc hóa học của tế / phân bào kết hợp với các chất hiện hữu trong không gian tại thời điểm đó chúng gặp nhau tạo sự tương tác mà ra.
 
Điều tôi đã trải qua dường như khác, khi rơi vào trạng thái tối đen, tôi vẫn tỉnh, trong màn tối đen đó vẫn nghe được tiếng của bác sỹ cấp cứu về tình trạng mất mạch, điện tim thẳng, áp huyết tụt xuống 30 cũng như những lời họ động viên nhau. Sau đó một lúc yên lặng, mới nghe tiếng quở mắng nhẹ, nghiêm khắc và ngắn gọn về nghĩa vụ của mình. Trong suốt thời gian đó tôi còn nhận biết âm khí dâng lên từ từ vượt qua đan điền khí hải, đã gần sát đến tim. Nhờ tiếng mắng mà tôi quyết định quay lại và dẫn khí từ đỉnh đầu chạy xuống, đẩy lùi dần âm khí cho đến khi nó thóat hẳn khỏi bàn chân ra ngòai rồi mới bất tỉnh thực sự trong 4 giờ.

Nói chung là phúc lớn hiiiiiiiiiiiiii
Bởi dương khí còn mạnh, và việc luyện nhâm đốc đã ngấm vào....tâm (*thành phản xạ có điều kiện), nên việc dẫn khí ..từ bách hội mới xảy ra. nhưng thực ra bể dương khí..lại chính ở tâm (*hoả khí dương, trụ tại âm khu - tâm phủ). nếu khí âm tràn qua tim là ...AE mất một người đồng hành có kinh nghiệm rùi hiiiiiiiiiiii

NB: đạo gia khí (*quách tỉnh) nó cũng luyện theo phép sinh tử này.......nên thằng nào mạng nhỏ thì dễ die, nhưng thằng nào mạng lớn...thì thành tựu rất nhanh (*như thằng quách trâu đó ), đây cũng là cách luyện tuy tàn bạo nhưng hợp quy luật sinh tồn. vì anh có giỏi cỡ mấy nhưng ..mạng nhỏ..thì vừa xuống núi...nhiều khi bị thằng bá dơ nó hạ độc chết queo (*đạo gia ngoài tài năng, còn xét cả yếu tố mạnh lớn này)
 
Yes, absolutely rite

TKS!

Pà know có cảm xúc gì mà post ..cho anh em món : ngon, nhiều, bổ, rẻ ....thía hiiiiiiiiiii
Do gold, hay VNI? hay do đề tài chúng cái ...đang ấp ủ ?
Có điều chưa thấy post kết luận....của những post đã post? vậy xin mời làm vài post nữa để AE thưởng lãm trình độ giác ngộ của học giả hiiiiiiiiiiiii
 
Back
Top