II
Tôi nhớ tôi đứng rất lâu bên bờ sông với nỗi đau khổ dữ dội trong lòng.
Trời! Thà tôi cứ ở lại cái thành phố lớn ấy còn hơn. Ở đấy tôi còn có thể ngủ đêm dưới gốc cây trồng tại vườn hoa Vích-tô-ri-a hoặc tìm được một chỗ nằm giữa những đống rác rưởi ở khu Gôn-đơ-khin-la.
Cuối thu, cảnh hoàng hôn đáng ghét từ trên bầu trời cuồn cuộn những mây úp chụp xuống đầu. Vào những ngày này, gió bấc thổi về lạnh buốt, người ta còn cảm thấy những hạt mưa phùn rơi trúng bầu trời mù mịt những sương. Cứ nghĩ đến cảnh tượng này bất cứ một kẻ bơ vơ lưu lạc nào đều thấy lạnh buốt ở sống lưng và bất chợt quấn chặt manh áo khoác dầu nắng dãi mưa vào người.
Một ý nghĩ đến với tôi rất rõ ràng: “Không, không, mình không thể về với cha được. Mình hãy gửi xác và mọi nỗi khổ đau dưới lòng con sông đào này vậy”.
Song, vượt qua được cửa ải của cái chết đâu có dễ dàng. Trong lúc nghĩ đến nỗi cô đơn giá lạnh và màn đêm dài dằng dặc, tôi vội cài khuy áo lại, nhưng khuy áo tôi chỉ còn lại hai chiếc, còn những chiếc khác đã đứt cả. Sau đó, tôi nghĩ đến chuyện ăn uống, tôi không còn nhớ bữa ăn nóng sốt gần đây nhất của tôi vào hôm nào nữa.
- Anh bạn ơi! Anh bạn! – Nghe có tiếng gọi bên cạnh, tôi vội quay người lại.
Một người đàn ông đang đứng dựa vào túp lều bên bờ sông, ngay cạnh chỗ tôi. Tuổi ông ta chưa nhiều nhưng râu ria khá dài. Ông ta đội chiếc mũ vải nhàu nát, còn quần áo thì lôi thôi lốc thốc. Ông ta thẫn thờ nhổ nước bọt xuống dòng sông vẩn đục in rõ hình thù những ngọn cây lấp loáng mọc bên kia sông và ngọn đèn tín hiệu leo lắt. Trong đôi mắt xanh thẳm của ông ta phảng phất một vẻ gì bỡn cợt. Trên bức tường đá hoa cương cao ngang ngực đặt một hòn gạch to. Hai tay ông ta đè lên hòn gạch và nhìn tôi vẻ chế giễu. Ông ta bảo:
- Anh ơi, tôi muốn nhờ anh giúp cho hai việc. – Ông ta nói năng tử tế, nên tôi thấy cần phải trả lời ông ta thật lễ phép:
- Vâng, tôi sẵn lòng giúp ông.
Ông ta ho khan hai tiếng, nói tiếp:
- Ồ…anh có tìm được một sợi dây thừng nào vừa dài vừa chắc để buộc hòn gạch này không?
Trong chiếc túi du lịch tôi mang theo từ tàu Mèo Xanh đến đây – một cái túi du lịch dầu dãi qua nhiều nhà trọ và nhiều cuộc hành trình trên biển, đã mất hết vẻ sang trọng trước kia của nó – có mấy đoạn dây nhỏ đã cũ.
- Rất tiếc là không có. – Tôi đáp. Tôi sẵn lòng giúp đỡ ông ta nên vội nói thêm: - Tôi chỉ có mấy đoạn dây nhỏ đã cũ cởi ở chuồng chim ra, nếu thấy dùng được ông hãy lấy mà dùng. Được cái chúng cũng dai lắm. Trước kia tôi vẫn dùng để buộc chim bồ câu đấy.
Do những lý do mà các bạn đọc đều đã biết, tôi không muốn mở túi du lịch ra lúc này. Tuy vậy tôi cũng nghiêng người, định lấy cái túi từ trên vai xuống. Người đàn ông đứng trước mặt tôi vội nắm lấy cánh tay tôi và nhếch mép cười:
- Cám ơn anh, tôi thay đổi ý định rồi…Tôi nghĩ, dùng áo buộc chặt vào bụng cũng được. Chẳng cần thiết phải đeo gạch vào cổ, anh thấy có được không?
Tôi lo ngại, khẽ hỏi:
- Ông làm thế để làm gì cơ ạ?
Ông ta toét miệng cười:
- Tôi tưởng anh đoán ra rồi chứ? Trèo lên tường rồi nhảy xuống sông. Buộc gạch vào thì nó giúp mình chìm nhanh hơn.
- Ôi, như vậy là…- Tôi sửng sốt, và lo ngại cho ông ta.
- Ồ, chả lẽ anh tưởng kẻ đang đứng trước mặt anh đây là nhà thủy văn học định nghiên cứu độ sâu của dòng sông chắc?
Ông ra vẻ tức tối làm tôi sợ run lên:
- Hừm…Chắc anh là linh mục của cái nhà thờ chết dấp nào hở? Anh định dạy người ta đừng làm điều dữ chứ gì? Có lẽ anh chuyên đi quảng cáo trước mặt những thằng thất nghiệp phải không? Không phải à? Ồ…Tôi đoán không sai. Anh là một thằng ngông nghênh. Vì tìm thú vui, hôm nay anh lột áo đuôi tôm và vứt bỏ đôi găng tay trắng để đóng bộ quần áo rách vào người. Này chú em ơi, nếu ở vào cảnh ngộ tôi chắc chắn chú em không ngăn cản, trái lại còn sẵn sàng cởi dây thắt lưng của chú ra buộc viên gạch vào cổ tôi, chúc tôi yên giấc ngàn thu và làm theo lời đề nghị thứ hai của tôi…
Giữa lúc đang hết sức kinh ngạc, tôi đã không cắt đứt những câu nói đầy tức tối và châm chọc một cách chua chát ấy. Gần đây, tôi không lạ gì về những lời lẽ như vậy. Sau đó, người đàn ông xa lạ ấy ôm ghì viên gạch vào bụng như sẵn sàng lìa bỏ tất cả. Với giọng bình tĩnh lạ lùng, ông ta nói thêm:
- Vâng, lời đề nghị thứ hai. Trong khi những cái tăm của tôi từ đáy nước sâu mười lăm thước Anh nổi lên, có thể những viên cảnh sát sẽ kéo đến đây… Quỷ sa tăng sai khiến họ cưỡi mô-tô chạy lăng xăng trên đường phố. Lúc đó anh nói hộ với bọn ấy rằng, không có chuyện gì xảy ra cả. Nếu không họ sẽ dùng câu liêm móc tôi lên, và rất có thể họ sẽ móc nát con người tôi ra mất. Họ sẽ làm thế cho mà xem. Tôi muốn xuống âm phủ với một thân hình nguyên vẹn chứ không muốn đui què mẻ sứt. Anh có thể giúp cho việc ấy không? Cám ơn anh. Vậy tôi…
Tôi gọi to:
- Khoan, ông nghe tôi nói đã !...
Ông ta đã bám vào bức tường cao ngang ngực và sắp đâm đầu xuống sông. Ông ta nhìn tôi chằm chằm, hỏi:
- Nói đi nhanh lên, tôi không đợi được nữa đâu.
Tôi nghẹn lại vì xúc động. Thực tình tôi không chịu để ông ta phun tăm nước từ độ sâu mười lăm thước lên. Tôi lẩm bẩm trong cơn hoảng hốt:
- Ông, ông… Xin ông tin lời tôi. Tôi đã nhiều lần rơi vào cảnh ngộ ghê rợn. Nỗi thất vọng đau khổ luôn bám riết lấy tôi như mũi tên đuổi theo con chim vậy. Song tôi vẫn hy vọng…
Ông ta giễu cợt tôi:
- Anh láu cá lắm! Chắc cuộc đời mới chỉ đấm nhẹ anh một cú vào cổ chứ chưa kịp thoi vào đúng quai hàm cho anh gãy răng và hoa mắt, có đúng thế không? Anh chưa lần nào phải đi tìm bác sĩ nha khoa vì một cú đấm như thế chứ? Hừ, anh định bảo gì tôi nào. Định bảo tôi khoan hãy đâm đầu xuống sông chứ gì?
Tôi thầm nghĩ đến cuộc biểu diễn người bay dạo trước, nên tức thì cất giọng cứng cỏi:
- Vâng! Đúng thế!
Tôi nói vậy có lẽ là muốn tự gỡ mình ra khỏi nỗi tuyệt vọng. Bởi vì tôi chọn khúc sông vắng vẻ cách xa đường cái này cũng không ngoài mục đích như ông ta. Cái túi du lịch đựng đầy đá sỏi của tôi sẽ làm tôi chìm nhanh hơn là ôm gạch, tôi dám đánh cuộc rằng, với độ sâu mười lăm thước, tôi sẽ là người đến đích trước nhất trong cuộc đua.
Ông ta nghĩ ngợi giây lát rồi bảo:
- Anh bảo chúng ta còn trông mong cái gì nữa nào?
Tôi nghĩ đến những hy vọng mỏng manh và bi đát rồi lẩm bẩm trả lời:
- Chúng ta đến Oét-sli thử tìm một chỗ nương thân trong Sở Cứu tế những kẻ lang thang xem sao.
- Trời!... Anh bạn ơi, anh không nghĩ được một nơi nào khá hơn hay sao? – Giọng ông ta lại lộ vẻ châm chọc như lúc nãy. – Đứng xếp hàng trước Sở với những đứa lang thang như chúng ta cho đến hai giờ đêm, rồi tranh cướp nhau kéo vào những gian nhà rách nát của Sở để cho các bà, các cô xúi giục chúng ta đọc những bài “lấy ân báo oán” của Giáo hội hay sao? Không đời nào tôi chịu, xin cảm ơn anh…
- Nhưng mỗi chúng ta sẽ có một bát cháo để húp và một chỗ để ngủ chứ? – Tôi cãi lại ông ta với một thái độ ương ngạnh lạ lùng. Thực ra tôi nghĩ rằng, thế nào mình cũng phải ôm túi đá đâm đầu xuống sông tự tử, nhưng thái độ cứng cỏi đến kỳ lạ của tôi đã làm thay đổi ý định cũ.
Ông ta nhăn nhó nheo mắt lại và nhìn tôi từ đầu đến chân.
- Có lẽ chúng ta không đến Oét-sli nữa mà đi đến lâu đài Ôn-tơ-mau-tơ tươi đẹp, được chứ? Chúng ta sẽ đứng dưới cửa sổ của phòng ngủ ông chủ lâu đài kêu to lên rằng: : “Thưa con người chúng tôi hằng kính mến! Mời ông ra đây để chúng tôi thưa với ông câu chuyện!” Thế nào ông chủ lâu đài cũng ra ban công hoặc mở toang cửa sổ thò cái đầu đội mũ ngủ ra bảo: “Chào hai ông, các ông đến thăm tôi có việc gì đấy?” Lúc ấy chúng ta sẽ chào ông ta theo kiểu quý tộc và thưa: “Từ sáng qua đến giờ, chúng tôi chưa được ăn tí gì, chúng tôi cũng không có chỗ nào mà ngủ nữa”. Tất nhiên ông chủ lâu đài sẽ bảo: “Điều ấy có dính dáng gì đến tôi đâu?” Lúc ấy ta lại thử van nài một lần nữa; “Nhưng ông có tìm cách gì giúp chúng tôi được không? Chúng tôi nghe nói ông là người giàu lòng thương người. Đây là lần đầu tiên chúng tôi đến cầu xin ông, tùy ông muốn thí cho thứ gì thừa thãi cũng được, chúng tôi đều mãn nguyện cả. Những chiếc áo ngự bào cũ của ông cũng giúp ích cho chúng tôi. Chúng tôi có thể dùng nó làm chăn đắp. Sáng mai chúng tôi sẽ đem bán nó cho một hiệu đồ cũ, điều đó sẽ giúp chúng tôi sống thoải mái được một tuần lễ…”.
Tôi kinh ngạc hỏi lại:
- Ông chủ cũ của lâu đài? Lẽ nào ông ta trở về rồi ư?
Ông ta xua xua tay:
- Anh bảo ông nào cơ? Bọn họ ai mà chả thế… Thật nực cười. Chưa chừng chúng ta chưa mở mồm thì lính canh lâu đài đã nện cho chúng ta một trận nên thân cũng nên. .. – Rồi ông ta kêu lên như một con rắn hổ mang – Tôi không thích thế! Thôi chào anh!
Ông ta bắt đầu trèo qua bức tường chắn:
- Khoan! – Tôi hốt hoảng quát khẽ - Sợ chỉ còn lại một mình, tôi cũng theo ông ta. Tôi thít chặt chiếc dây da trên túi du lịch, hai tay run bần bật, sẵn sàng dấn thân vào cuộc hành trình cuối cùng. Tôi nói gần như khóc: - Ông đợi cho một lát. Tôi sẽ chết theo ông. Chúng ta cùng chết với nhau…
Ông ta há mồm ngạc nhiên và kéo chân từ trên bờ tường xuống, đặt giữa một cái rãnh ẩm ướt trên mặt đê rồi cất tiếng cười bi đát:
- Chúng ta đã hẹn ước gì với nhau đâu. Tôi bảo cho anh biết làm thế là không tốt, thậm chí còn quá ư không tốt nữa. Thôi, tôi hiểu rồi, cứ để tôi tự tử một mình thôi. Anh còn trẻ thế mà đã chán đời hay sao? Không, một mình tôi thôi
Ông ta lại gác chân lên tường.