Hiện trạng vĩ mô và kinh tế Việt Nam

——————
- Tuần vừa rồi thông tin nổi bật nhất có lẽ là báo cáo về GDP (tổng sản phẩm quốc nội) của Hoa Kỳ ra với con số tăng trưởng âm. Đây là Quý thứ 2 liên tiếp chúng ta có tăng trưởng âm. Nghĩa là, về mặt kỹ thuật (technically), kinh tế Mỹ đã ở trong suy thoái. - Tuy nhiên cả FE'D lẫn chính phủ Mỹ đều phủ nhận sử dụng khái niệm này để định nghĩa về suy thoái. Thậm chí, trước ngày công bố GDP, website chính thức của Nhà Trắng còn đăng một bài tiểu luận nhấn mạnh: việc 2 Quý tăng trưởng âm không nhất thiết phải gọi là suy thoái. Nhiều nhà phân tích cho rằng Nhà Trắng đang cố gắng ‘giáo dục lại’ (re-educate) người dân về khái niệm suy thoái. Cộng đồng mạng còn để ý thấy định nghĩa về suy thoái ở trên trang Wikipedia (trang thông tin kiến thức đại chúng) bị sửa nhiều lần trước ngày công bố GDP. - Tất nhiên, với nhiều khuấy động phía sau màn hình như vậy thì ai cũng đoán được con số GDP của Quý II ra phải âm thôi. Nếu không thì đâu tự nhiên phải ‘rần rần’ lên như thế. Còn nhớ vào hôm trước khi công bố GDP, trong cuộc phỏng vấn sau buổi họp của FE’D. có một phóng viên hỏi Powell rằng ‘ngày mai con số GDP sẽ được công bố, ông có xem qua nó trước khi ra quyết định tăng lãi suất chưa’, Powell trả lời ông chưa được thấy số liệu GDP. Điều này nghĩa là, về lý thuyết, FE'D đưa ra quyết định tăng lãi suất mà không cần biết rGDP âm. Nhưng có lẽ nếu biết trước thì FE'D cũng không thay đổi quyết định của mình, vì đâu còn cách nào khác.
—————— - GDP được cấu thành bởi 5 yếu tố: Tiêu dùng (Consumer Spending), Đầu tư (Investment), Chi tiêu chính phủ (Goverment Spending), Xuất khẩu (Export) và Nhập khẩu (Import). Công thức nó như thế này: Y = C + I + G + (X-M), trong đó (X-M) còn được gọi là cân đối xuất nhập khẩu (Trade Balance). *Y: Báo cáo real GDP của Quý II cho thấy: tiêu dùng tăng 0.7% so với cùng kỳ năm ngoái (YoY), đầu tư giảm -2.73% so với năm ngoái, chi tiêu chính phủ giảm -0.33%, xuất khẩu tăng 1.92% và nhập khẩu tăng 0.49%. Cộng lại hết theo công thức trên thì ra con số rGDP giảm -0.93%. Mổ xẻ từng cái một để thấy cái gì đang diễn ra với rGDP của chúng ta.
*C: Tiêu dùng tăng 0.7%: trong đó tiêu thụ hàng hoá (goods) giảm -1.08% nhưng dịch vụ (service) tăng 1.78%. Đây là hệ quả rõ nét nhất của chính sách mở cửa nền kinh tế hậu covid. Còn nhớ trong thời covid chúng ta không được phép đi đâu, không được du lịch, không được xem phim rạp, không được quánh casino; nên khi cần giải trí người ta chẳng biết làm gì khác hơn là mu|a hàng hoá (goods) cho mình, người mu|a quần áo, kẻ mu|a dụng cụ sửa xe hay nâng cấp nhà cửa... Nhưng giờ khi mà chúng ta được tự do bay nhảy thì toàn bộ nhu cầu 'thoả mãn tiêu xài' chuyển dịch từ hàng hoá sang dịch vụ. Nên không gì ngạc nhiên khi tiêu thụ hàng hoá giảm và dịch vụ lại tăng trong Quý II vừa qua. Nhìn cổ phiếu hàng tiêu dùng như Walmart & Target rớt thảm mà xót thương, trong khi cổ phiếu các hãng máy bay, khách sạn, vui chơi giải trí được dịp phục hồi thời gian qua cũng là vì như vậy. *I: Đầu tư giảm -2.73%: trong đó đầu tư cố định (Fixed Investment) giảm -0.72% và thay đổi hàng trong kho (Change in Inventory) giảm tới -2.01% (đây là con số rất bất thường, cũng là nguyên do chính kéo rGDP xuống âm trong Quý II). Thật ra hàng trong kho (Inventory) của Quý II không hề giảm, ngược lại còn tăng khoảng 81.6 tỷ USD. Nhưng “con số tăng” này nhỏ hơn “con số tăng” của Quý 1 (188.5 tỷ USD), nghĩa là tuy tăng nhưng không tăng nhiều như Quý 1. Mà công thức tính rGDP của Inventory là dựa vào con số tăng qua từng Quý (Change in Inventory) chứ không phải dựa nào con số tổng (Not Aggregated Number). Như vậy, mặc dù Inventory có tăng nhưng “tăng của Quý II” thấp hơn đến 56.7% so với “tăng của Quý 1” nên thành ra là “giảm độ tăng” và kéo theo rGDP giảm một cách đáng kể (hi vọng bạn phân biệt được khái niệm khá phúc tạp này). Để ý sẽ thấy, nếu không có yếu tố bất ngờ từ “Change in Inventory” này thì real GDP của Quý II chắc chắn đã không bị âm.
*G: Chi tiêu chính phủ giảm -0.33%: đúng là tin tốt, cuối cùng thì chính phủ cũng phải thắt lưng buộc bụng. Ông bà ta có câu “Chính phủ đi trước, làng nước theo sau” rất là hợp với tình cảnh hiện tại. Chi tiêu của chính phủ được chia 2 loại, dành cho quốc phòng và không dành cho quốc phòng, Quý II vừa qua thì chi tiêu quốc phòng tăng 2.5% trong khi chi tiêu không liên quan tới quốc phòng giảm -10.5%, xem ra là thắt lưng buộc bụng thật rồi. Cổ phiếu các ngành sản xuất vũ khí quốc phòng cũng ổn định kể từ đầu năm. *X-M: Cân đối xuất nhập khẩu (Export - Import) tăng 1.43% > 0: nghĩa là xuất siêu (xuất nhiều hơn nhập). Hiện tượng này ngược hẳn với số liệu Quý 1/2022, lúc đó Hoa Kỳ nhập khối lượng lớn hàng hoá nhằm phục vụ nhu cầu tiêu thụ trong dân chúng (chính nhập siêu (Import > Export) là nguyên nhân khiến rGDP Quý 1 bị tăng trưởng âm). Nhưng đó cũng là sai lầm của các hãng tiêu dùng như Walmart và Target, họ đã tính toán sai tưởng rằng nhu cầu tiêu thụ này sẽ còn mãi; nhưng không ngờ ngay sau khi kinh tế mở cửa hoàn toàn thì tất cả nhu cầu ‘hưởng thụ’ của nhân dân dịch chuyển 180º sang các mảng dịch vụ như du lịch, thể thao và giải trí, vì vậy mà nhập khẩu của Quý II giảm hẳn so với Quý 1. ——————
- Như vậy, nhìn tổng thể, tính cho đến cuối Quý II, nền kinh tế vẫn chưa đến nỗi nào. GDP không quá tệ và báo cáo việc làm vẫn rất vững, điều này mở toang cánh cửa cho FE'D thoải mái tăng lãi suất trong những lần họp kế tiếp, nhất là trong bối cảnh báo cáo về lạm phát PCE cuối tuần qua vẫn chưa đạt được mong muốn của FE'D. Viễn cảnh về chính sách lãi suất khắc khe của FE'D vẫn sẽ tiếp tục ít nhất cho đến cuối năm hoặc sau bầu cử.
- Điều này có ý nghĩa gì với những người đầu tư như chúng ta và tại sao thị trường lại tăng ngay sau khi FE'D tăng lãi suất? Trả lời cho cả hai câu hỏi phức tạp trên chỉ cần 1 từ duy nhất: FE’D. Chính FE'D và cụ thể là các phát biểu của chủ tịch Powell đã thay đổi nhận định của giới đầu tư. Ngay sau khi Powell trả lời báo chí và đưa ra một câu nói trấn an rằng là sẽ xem xét “giảm nhiệt” tăng lãi suất trong những đợt họp kế tiếp, thị trường đã đảo chiều và tăng điểm cho đến tận hôm nay. Chỉ với câu nói này FE'D đã gây ra một sự hiểu lầm không cần thiết, tuy thị trường tăng điểm nhưng hậu quả là lạm phát sẽ không được kiềm chế như mong muốn dẫn đến việc FE'D sẽ lại phải tăng lãi suất thêm nữa, nghĩa là FE'D mất hẳn uy tín của mình (nói 1 đằng làm 1 nẻo). - Tóm lại, nếu bạn đánh cược vào sự “thay đổi chóng mặt và bất nhất” của FE'D thì đợt rally (tăng điểm) này sẽ còn kéo dài tuỳ vào các phát ngôn tiếp theo của các chủ tịch. Còn nếu bạn đánh cược vào việc FE'D sẽ “nghiêm túc” với mục đích sau cùng của họ là kiềm chế lạm phát xuống 2% thì đợt rally này vẫn không gì hơn ngoài ‘bear market rally’ (nghĩa là chưa hoàn toàn uptrend). - Số liệu GDP, số liệu việc làm, lương bổng và tín hiệu từ Nhà Trắng đang giao cho FE'D rất nhiều quyền lực để thoải mái tăng lãi suất bất kể khi nào và bất kể bao nhiêu họ muốn, cho đến khi một cái gì đó vỡ ra, hoặc là lạm phát hoặc là nền kinh tế.
——————
- Thật ra, đọc và hiểu về kinh tế vĩ mô rất cần thiết cho người đầu tư, hi vọng các bài viết này sẽ giúp mọi người hứng thú với vĩ mô. Nhưng nếu chỉ nắm vĩ mô mà không biết áp dụng vào đầu tư cụ thể như thế nào thì cũng rất uổng thời gian đọc và nghiên cứu. Vì vậy, mình dự định sẽ viết cụ thể hơn về những ‘món’ đầu tư và cách đầu tư dựa trên nhận thức vĩ mô ở từng thời điểm, để giúp hiểu rõ tại sao lúc này nên đầu tư ‘món’ A, lúc kia thì lại đẩy mạnh vào ‘món’ B. - Nhưng vì đây là fb cá nhân nên không muốn làm phiền bạn bè đồng nghiệp mình khi thấy mình cứ ‘phím hàng’ về cổ phiếu này kia, nên mình sẽ đăng nhiều bên trang page của mình và phím hàng linh tinh bên ấy, còn nơi thanh tịnh này chỉ xin viết về kinh tế vĩ mô và các chủ đề chung chung xinh đẹp thôi. Mọi người ai quan tâm thì có thể theo dõi bên đó.
Froom: A3Mlem
 
GDP quý III tăng tới 13,67%, lạm phát vẫn thấp ??? (4.01%)
So với tháng 12/2021, CPI tháng 9 tăng 4,01%
nhìn là thấy yếu tố tăng giá đã thâm nhập mạnh vào nền kinh tế. GDP = P(giá cả) *f. mặc dù dùng đủ cách giảm giá như giảm thuế xăng....nhưng 9 tháng chỉ tiêu CPI đã "hoàn thành", nguy cơ 03 tháng là khá cao. nếu tính bình quân là 1% thì cuối năm CPI là tăng 5%, tình bình quân thế giới là 8%, theo đà tăng CPI thì có khả năng 6%
Dự trữ ngoại hối tháng 8 còn 80 tỷ (sài hết 20 tỷ cho tỷ giá) tháng 9 năm chắc 10 tỷ. DO vậy cuối năm dự trữ ngoại hối đã khá mỏng, tất nhiên là không còn đè được thị trường nữa
NÓi chung VNI đỏ là certainly
 
TRUMP. KẾT THÚC THẾ GIỚI PHẲNG VÀ MỞ RA THẬP KỶ HỖN LOẠN.

KẾT THÚC THẾ GIỚI PHẲNG:


Toàn cầu hóa với sự phân công lao động quốc tế tối ưu đã tạo nên một hệ thống chuỗi cung ứng toàn cầu mạnh mẽ, nơi mỗi quốc gia đảm nhận một vai trò chuyên biệt trong sản xuất và tiêu dùng. Tuy nhiên, những biến động lớn trong địa chính trị, kinh tế và xã hội toàn cầu, với điểm chốt là cuộc thương chiến giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới, đã khép lại giai đoạn thế giới phẳng và đưa lịch sử kinh tế thế giới sang trang.

Khiếm khuyết của Thế giới phẳng:

Đại dịch Covid-19 và sự đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu


Đại dịch Covid-19 đã khiến chuỗi cung ứng toàn cầu rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Việc phong tỏa sản xuất tại một số quốc gia đã khiến nhiều ngành công nghiệp ở những nơi khác phải ngưng trệ, từ dược phẩm, thiết bị y tế đến linh kiện điện tử và ô tô. Sự đứt gãy chuỗi cung ứng này đã phơi bày mức độ phụ thuộc lẫn nhau quá lớn và thiếu phương án dự phòng của nhiều nền kinh tế, tạo ra làn sóng tái đánh giá và tái cấu trúc chuỗi sản xuất toàn cầu.

Xung đột địa chính trị thúc đẩy nhu cầu quản trị chuỗi sản xuất chủ động

Cuộc chiến Nga – Ukraine, xung đột Trung Đông, và các mâu thuẫn tiềm tàng khác khiến thế giới nhận ra rằng sự ổn định chuỗi cung ứng không thể chỉ phụ thuộc vào hiệu quả kinh tế, mà còn phải tính đến yếu tố an ninh. Chiến lược của nhiểu quốc gia, kể cả Mỹ, buộc phải quay lại đánh giá những ưu tiên phát triển năng lực sản xuất trong nước hoặc ở những khu vực đồng minh tin cậy, đồng thời xây dựng phương án ứng phó với rủi ro chiến sự và gián đoạn chính trị. Việc thay đổi và lựa chọn chuỗi cung ứng phù hợp hơn với nhu cầu chiến lược này buộc hệ thống cũ phải thay đổi.

Mỹ muốn chấm dứt vai trò “điểm tiêu thụ cuối cùng” trong chuỗi cung ứng toàn cầu

Trong hệ thống toàn cầu hóa, Mỹ từ lâu đã đóng vai trò là điểm kết thúc của chuỗi cung ứng, khi rất nhiều hàng hóa được sản xuất tại nước ngoài và tiêu thụ tại thị trường nội địa Mỹ. Tuy nhiên, điều này khiến Mỹ phụ thuộc quá nhiều vào các nền kinh tế sản xuất – đặc biệt là Trung Quốc. Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược gia tăng, Mỹ đã và đang tái cấu trúc chuỗi cung ứng, đẩy mạnh xu hướng có thể quản trị chuỗi cung ứng một cách chủ động, nhằm đưa hoạt động sản xuất về gần hơn hoặc về lại trong nước, giảm thiểu rủi ro địa chính trị và tăng cường tự chủ kinh tế.

Trung Quốc từ bỏ vai trò “công xưởng thế giới”, vươn lên thành nhà sản xuất hiện đại

Từ vị thế là công xưởng giá rẻ của thế giới, Trung Quốc hiện đang tái định vị mình như một trung tâm sản xuất công nghệ cao, với sự đầu tư mạnh mẽ vào tự động hóa, AI, chất bán dẫn và sản xuất thông minh. Nền kinh tế này không còn chỉ dựa vào lợi thế lao động giá rẻ mà đang hướng đến chuỗi giá trị cao hơn, qua đó thách thức vị thế công nghệ của các nước phát triển và buộc các chuỗi cung ứng toàn cầu phải thích nghi với vai trò mới của Trung Quốc.
 
THẾ GIỚI THIẾT LẬP MÔ HÌNH KINH TẾ MỚI

Sau giai đoạn toàn cầu hóa mạnh mẽ trong gần ba thập kỷ, nền kinh tế thế giới đang dần chuyển mình để thích nghi với những thay đổi sâu sắc về địa chính trị, tài chính và cấu trúc thị trường. Những cú sốc liên tiếp – từ đại dịch Covid-19, cuộc xung đột Nga - Ukraine, đến chính sách kinh tế mang tính bảo hộ từ các cường quốc – đang thúc đẩy thế giới tiến vào giai đoạn tái cấu trúc sâu rộng, hướng đến một mô hình kinh tế mới phức tạp và đa chiều hơn.

Kinh tế thế giới phục hồi chậm sau đại dịch Covid-19:

Mặc dù những khó khăn do gián đoạn sản xuất của đại dịch đã qua, song hậu quả kinh tế mà nó để lại vẫn còn rất nặng nề. Nhiều quốc gia phải đối mặt với tình trạng sụt giảm năng suất, sự thay đổi hành vi tiêu dùng, và biến động chuỗi cung ứng kéo dài. Quá trình phục hồi kinh tế toàn cầu đang diễn ra với tốc độ chậm và không đồng đều, trong đó các nền kinh tế đang phát triển chịu ảnh hưởng nặng nề hơn do thiếu nguồn lực và năng lực ứng phó. Mô hình tăng trưởng truyền thống – dựa vào cầu tiêu dùng mạnh và chuỗi cung ứng xuyên quốc gia – đang dần mất hiệu lực, đòi hỏi những tiếp cận mới về phát triển bền vững và tự chủ chiến lược.

Sự mất cân bằng trong thâm hụt thương mại của Mỹ

Mỹ từ lâu đã là quốc gia tiêu dùng lớn nhất thế giới, thường xuyên duy trì thâm hụt thương mại cao. Điều này phần nào phản ánh vị thế của đồng USD và sức mạnh tiêu dùng của người dân Mỹ, nhưng cũng cho thấy sự mất cân đối sâu sắc trong cơ cấu sản xuất – tiêu dùng. Thâm hụt thương mại kéo dài không chỉ làm tăng áp lực lên đồng USD và lãi suất nội địa mà còn gây căng thẳng trong quan hệ thương mại với các đối tác, đặc biệt là Trung Quốc, EU và các quốc gia châu Á. Sự mất cân bằng này đang đặt ra yêu cầu cấp thiết cho Mỹ trong việc tái cấu trúc nền kinh tế và tăng cường năng lực sản xuất nội địa.

Nợ công cao kỷ lục tại Mỹ, châu Âu và Nhật Bản

Chi phí khổng lồ cho các gói kích thích kinh tế trong đại dịch khiến nợ công tại các nền kinh tế lớn tăng vọt. Mỹ hiện đang đối mặt với tổng nợ công là 36.000 tỷ USD, vượt xa ngưỡng 100% GDP và chi phí trả lãi hằng năm đã vượt 1.000 tỷ USD. Trong khi đó, các quốc gia châu Âu và Nhật Bản cũng ghi nhận các con số lịch sử. Pháp nợ 3300 tỷ EUR, hơn 110% GDP. Italy nợ 3000 tỷ EUR, hơn 136% GPD, Tây Ban Nha nợ 1620 tỷ EUR, chiếm 101% GPD, Nhật Bản nợ hơn 9000 tỷ USD, hơn 260% GDP. Gánh nặng nợ nần khiến các chính phủ phải đối mặt với lựa chọn khó khăn giữa duy trì chi tiêu công để hỗ trợ tăng trưởng hay thắt chặt chính sách tài khóa để ổn định tài chính. Đồng thời, lãi suất tăng để kiểm soát lạm phát cũng làm chi phí vay mượn trở nên đắt đỏ hơn, khiến bài toán cân đối ngân sách ngày càng phức tạp.

Rủi ro từ chính sách thuế quan của Mỹ: Chia rẽ các liên minh kinh tế và làm gia tăng lạm phát

Việc Mỹ áp dụng các chính sách thuế quan mang tính bảo hộ nhằm bảo vệ sản xuất nội địa – đặc biệt dưới các chính quyền gần đây – đang gây ra những hệ lụy lớn cho hệ thống thương mại toàn cầu. Các mức thuế cao đánh vào hàng hóa nhập khẩu, đặc biệt từ Trung Quốc và một số đối tác thân cận, không chỉ làm gia tăng chi phí sản xuất mà còn thúc đẩy làn sóng phản ứng trả đũa từ các quốc gia khác. Điều này có nguy cơ làm suy yếu các khối liên minh kinh tế truyền thống như G7, Hiệp định Bắc Mỹ và Mexico, WTO. Hơn nữa, chi phí nhập khẩu cao khiến giá hàng hóa leo thang, đưa lạm phát quay trở lại và đe dọa ổn định kinh tế toàn cầu trong dài hạn.
 
Sự thay đổi của nền sản xuất toàn cầu dưới tác động của công nghệ mới

Cuộc cách mạng công nghệ mới – với sự phát triển vượt bậc của robot và trí tuệ nhân tạo (AI) – đang tạo ra những thay đổi căn bản trong nền sản xuất toàn cầu. Không chỉ đơn thuần là nâng cấp công nghệ, những đổi thay này đang định hình lại mô hình kinh tế, cơ cấu lao động, xã hội và thậm chí cả trật tự địa chính trị.

Robot và AI thay thế con người trong nhiều lĩnh vực sản xuất

Sự kết hợp giữa robot và AI đã đạt đến mức có thể thay thế con người trong nhiều khâu sản xuất – từ lắp ráp, kiểm tra chất lượng, vận chuyển, đến quản lý dây chuyền tự động. Các hệ thống AI ngày càng thông minh hơn, có thể học hỏi và đưa ra quyết định trong thời gian thực, đồng nghĩa với việc vai trò của lao động phổ thông và cả lao động kỹ thuật trung bình đang bị thu hẹp nhanh chóng. Không chỉ trong sản xuất công nghiệp, robot và AI còn bắt đầu xâm nhập vào các lĩnh vực như nông nghiệp, logistics, y tế và thậm chí là dịch vụ khách hàng.

Tạo khả năng hạ chi phí sản xuất ở nhiều quốc gia

Việc ứng dụng robot và AI giúp tăng năng suất, giảm lỗi và cắt giảm chi phí nhân công – đặc biệt là ở các quốc gia có chi phí lao động cao. Điều này làm thay đổi lợi thế cạnh tranh truyền thống giữa các quốc gia. Trước đây, sản xuất thường đổ về các nước đang phát triển nhờ nhân công giá rẻ, nhưng hiện nay, công nghệ cho phép các nước phát triển đưa sản xuất quay trở lại mà vẫn đảm bảo hiệu quả kinh tế. Việc "tự động hóa hóa toàn cầu" đang phá vỡ quy luật phân công lao động quốc tế kiểu cũ, tạo ra một cuộc cạnh tranh mới – không còn dựa trên chi phí lao động mà dựa trên năng lực công nghệ.

Tác động mạnh đến đời sống con người và xã hội

Việc robot và AI thay thế con người trong sản xuất có thể dẫn đến làn sóng thất nghiệp ở một số ngành nghề, đặc biệt là lao động phổ thông và kỹ thuật trung cấp. Điều này kéo theo nhiều hệ lụy xã hội như bất bình đẳng gia tăng, khoảng cách thu nhập ngày càng rộng, và đòi hỏi hệ thống giáo dục – đào tạo phải thay đổi để chuẩn bị nguồn lực thích nghi với thời đại mới. Bên cạnh đó, cách con người lao động, giao tiếp, tiêu dùng và thậm chí định nghĩa về “việc làm” cũng đang thay đổi mạnh mẽ.

Tác động mạnh đến các xung đột hiện tại

Sự dịch chuyển trong mô hình sản xuất do công nghệ gây ra đang ảnh hưởng trực tiếp đến cấu trúc quyền lực toàn cầu. Những quốc gia kiểm soát công nghệ AI, robot và hạ tầng sản xuất hiện đại sẽ có ưu thế vượt trội về kinh tế và quân sự. Điều này làm gia tăng cạnh tranh giữa các cường quốc, đặc biệt là Mỹ, Trung Quốc, EU và Nhật Bản. Hơn nữa, việc mất đi vai trò công xưởng hoặc trung tâm lao động giá rẻ có thể khiến một số quốc gia đang phát triển rơi vào bất ổn kinh tế – xã hội, dẫn đến xung đột nội tại hoặc khu vực. Đồng thời, công nghệ AI và robot cũng được ứng dụng trong lĩnh vực quốc phòng, làm thay đổi cách thức các cuộc chiến tranh hiện đại diễn ra, kéo theo hàng loạt hệ lụy về an ninh toàn cầu.
 
THẬP KỶ HỖN LOẠN:

Nền kinh tế thế giới đang bước vào giai đoạn định hình lại mô hình vận hành sau nhiều biến động lớn, từ đại dịch Covid-19, xung đột địa chính trị đến khủng hoảng chuỗi cung ứng và lạm phát. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi này không diễn ra trong trật tự và ổn định, mà ngược lại, đang làm gia tăng sự hỗn loạn toàn cầu khi các quốc gia theo đuổi những hướng đi riêng biệt, đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu trong một thế giới ngày càng phân mảnh và khó đoán định.

Chính sách thuế quan của Mỹ gây ra phân cực trong các liên minh kinh tế

Chính sách thuế quan của Mỹ – đặc biệt là các biện pháp bảo hộ thương mại nhằm bảo vệ sản xuất nội địa – đang làm suy yếu các liên minh kinh tế truyền thống như G7, WTO hay các hiệp định thương mại đa phương. Việc Mỹ áp thuế cao đối với các sản phẩm từ cả đối thủ chiến lược (như Trung Quốc) và đồng minh (như EU, Hàn Quốc, Nhật Bản) đang làm gia tăng căng thẳng và nghi ngờ trong quan hệ đối tác. Thay vì hợp tác để xử lý các vấn đề toàn cầu như chuỗi cung ứng, biến đổi khí hậu hay cạnh tranh công nghệ, các quốc gia dần ưu tiên lợi ích riêng, dẫn đến sự phân cực và đứt gãy trong hợp tác kinh tế toàn cầu.

Sự phân mảnh trong các khối sản xuất

Trước kia, chuỗi cung ứng toàn cầu được thiết kế theo nguyên tắc tối ưu chi phí và hiệu quả, nhưng nay, dưới áp lực địa chính trị, an ninh kinh tế và chính sách bảo hộ, các quốc gia và tập đoàn đa quốc gia đang tái cấu trúc sản xuất theo hướng đảm bảo về mặt vị trí địa lý, đảm bảo về mặt quan hệ đối tác, liên minh, hoặc nội địa hóa. Điều này tạo ra các khối sản xuất nhỏ, tách biệt, thay vì một mạng lưới sản xuất toàn cầu thống nhất. Hậu quả là năng suất toàn cầu suy giảm, hiệu quả sản xuất giảm, và sự thiếu phối hợp ngày càng rõ nét trong hệ thống kinh tế quốc tế.

Sự phân mảnh trong phát triển công nghệ và nguy cơ xung đột

Cạnh tranh công nghệ – đặc biệt trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, chất bán dẫn, và hạ tầng số – đang diễn ra quyết liệt giữa các cường quốc như Mỹ, Trung Quốc, EU và Ấn Độ. Thay vì chia sẻ công nghệ và chuẩn hóa toàn cầu, mỗi khối kinh tế đang cố gắng xây dựng hệ sinh thái công nghệ riêng biệt, không tương thích lẫn nhau. Điều này dẫn đến rào cản kỹ thuật trong thương mại, giảm hiệu suất đổi mới sáng tạo toàn cầu và tăng chi phí nghiên cứu – phát triển. Thế giới có nguy cơ rơi vào trạng thái “chiến tranh lạnh công nghệ” với các tiêu chuẩn khác nhau, gây cản trở nghiêm trọng cho sự phối hợp toàn cầu.

Hơn nữa, những quốc gia đang phát triển, có dân số trẻ mất đi vai trò công xưởng hoặc trung tâm lao động giá rẻ có thể khiến họ rơi vào bất ổn kinh tế – xã hội, dẫn đến xung đột nội tại hoặc khu vực. Thậm chí, bài toán đó cũng phức tạp đối với cả quốc gia có kinh tế phát triển khi cơ cấu lao động không thể đạt mức cân bằng giữa con người và máy. Sự thay thế mới với công nghệ AI và robot cũng được ứng dụng trong lĩnh vực quốc phòng, làm thay đổi cách thức các cuộc chiến tranh hiện đại diễn ra, khiến diễn biến các cuộc xung đột luôn phức tạp và có nhiều diễn biến mới chưa từng có trong lịch sử xung đột loài người.

Chi phí sản xuất toàn cầu gia tăng trong bối cảnh nợ công tăng cao

Tác động tổng hợp của chính sách thuế quan, sự phân mảnh chuỗi cung ứng, và cạnh tranh công nghệ dẫn đến một hậu quả chung: chi phí sản xuất tăng mạnh trên quy mô toàn cầu. Việc di dời nhà máy, xây dựng lại chuỗi cung ứng, đầu tư vào công nghệ nội địa, và thiếu hiệu quả do thiếu hợp tác quốc tế khiến giá thành sản phẩm tăng, ảnh hưởng đến tiêu dùng, gây áp lực lạm phát và làm chậm quá trình phục hồi kinh tế. Doanh nghiệp cũng đối mặt với sự bất ổn trong chiến lược đầu tư và hoạt động toàn cầu, trong khi người lao động chịu tác động từ cắt giảm việc làm và tái cơ cấu lao động quy mô lớn.

Trong khi đó nợ công các quốc gia là gánh nặng nan giải sẽ vấp phải trở ngại lớn khi hiệu quả sản xuất bị thách thức do chi phí sản xuất toàn cầu gia tăng. Vòng xoáy nợ và đáo nợ quốc gia bằng trái phiếu mới không thể diễn ra mãi và khi vòng xoáy kết thúc là lúc một quốc gia nào đó gục ngã dưới áp lực trả nợ. Do tính chất phức tạp của hệ thống mới của kinh tế toàn cầu, diễn biến hay ảnh hưởng cụ thể rất khó đoán nhưng xác suất kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái rất cao.
 
Back
Top