Đánh cổ phiếu theo dòng tiền

Ngày giao dịch cuối cùng tại Sở GDCK Hà Nội: 25/10/2012.

Căn cứ Quyết định số 375/QĐ-SGDHN ngày 26 tháng 9 năm 2012 của Sở GDCK Hà Nội về việc hủy niêm yết cổ phiếu SME, Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội trân trọng thông báo như sau:
- Tên chứng khoán: Cổ phiếu CTCP Chứng khoán SME (SME)
- Loại chứng khoán: Cổ phiếu phổ thông
- Mã chứng khoán: SME
- Mệnh giá: 10.000 đồng/cổ phiếu
- Số lượng cổ phiếu hủy niêm yết: 22.500.000 cổ phiếu (Hai mươi hai triệu năm trăm nghìn cổ phiếu)
- Giá trị cổ phiếu hủy niêm yết (theo mệnh giá): 225.000.000.000 đồng (Hai trăm hai mươi lăm tỷ đồng)
- Ngày hủy niêm yết: 26/10/2012
- Ngày giao dịch cuối cùng tại Sở GDCK Hà Nội: 25/10/2012
- Lý do hủy niêm yết: CTCP Chứng khoán SME vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ công bố thông tin của tổ chức niêm yết.
hoàng thùy link đây http://s.cafef.vn/sme-92799/sme-huy-...et-tu-2610.chn
 
Nợ xấu ngân hàng được giấu như thế nào?

Tác giả: Hà Đinh Hoa
Bài đã được xuất bản.: 21/09/2012 10:52 GMT+7

Ngoài Vinashin, có bao nhiêu DNNN khác mà NHNN đã đồng ý cho phép các tổ chức tín dụng được khoanh nợ, cơ cấu lại khoản nợ và không phải trích lập dự phòng? Nếu các khoản này được công bố thì con số nợ quá hạn, nợ xấu thực tế là bao nhiêu?
Nếu nhìn vào báo cáo tài chính của ngân hàng, tất cả người xem có thể dễ dàng nhận thấy được nợ xấu của ngân hàng là bao nhiêu trong phần thuyết minh của mục "Dư nợ cho vay khách hàng của ngân hàng". Nợ cho vay được phân loại làm năm nhóm theo quyết định 493/2005/QĐ - NHNN và đã được sửa đổi theo quyết định 18/2007/QĐ-NHNN. Tuy nhiên, nợ xấu thực tế của hệ thống ngân hàng cao hơn rất nhiều so với con số này.
Thống đốc ngân hàng Nhà nước (NHNN) nói nợ xấu theo số liệu NHNN là đáng tin cậy nhất, với mức 8,6% tổng dư nợ tại thời điểm 31.3.2012. Trong khi đó, số liệu báo cáo của các tổ chức tín dụng, dù cập nhật đến 31/5/2012, chỉ ở mức 4,47%. Sự chênh lệch này đến từ đâu và có dừng lại ở đó hay cao hơn nhiều như báo cáo của uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia, của Fitch?
"Thủ thuật" hạch toán và đánh giá nợ
Trong những năm trước, để có thể đẩy mạnh được hoạt động tăng trưởng tín dụng và lách các quy định của NHNN, nhiều ngân hàng thương mại đã đẩy mạnh hoạt động cho vay nhưng lại không hạch toán vào mục Cho vay với khách hàng. Thay vào đó, nhiều khoản mục khác trên bảng cân đối kế toán lại "phình to ra" do các ngân hàng thương mại (NHTM) có thể đã lách các hoạt động cho vay vào các khoản mục này như mục Các tài sản có khác (trong đó có khoản phải thu, tài sản có khác), Chứng khoán đầu tư (trong đó có chứng khoán nợ do các tổ chức kinh tế phát hành), Uỷ thác đầu tư... Nhiều tài sản trong nhóm này có tính chất tương tự như tín dụng nhưng không được các NHTM trích dự phòng hay phân loại nhóm nợ do không có quy định cụ thể. Điều này đã làm giảm bớt các khoản nợ quá hạn và nợ xấu của các NHTM do các NHTM chỉ thực hiện phân loại nợ với các khoản cho vay trên mục Cho vay khách hàng.
Không chỉ có Habubank mà nhiều NHTM khác cũng không trích lập dự phòng với các khoản cho vay Vinashin.
Ngoài ra, để không phải điều chỉnh nhóm nợ với các khoản cho vay, nhiều NHTM có thể đã chuyển từ việc cho vay sang mua trái phiếu do các tổ chức kinh tế phát hành. Theo TBKTSG, Hoàng Anh Gia Lai (HAG) đã phát hành thành công 850 tỉ đồng trái phiếu vào ngày 17.8.2012. Số trái phiếu phát hành lần này để cơ cấu lại các khoản nợ ở các ngân hàng. Trong thương vụ này, BIDV và công ty chứng khoán BIDV thu xếp phát hành, còn đối tượng mua là các NHTM nơi HAG có các khoản nợ.
Làm đẹp báo cáo tài chính
Quy định hiện nay về phân loại nhóm nợ của các NHTM như thế nào cũng tạo điều kiện giúp các NHTM làm đẹp báo cáo tài chính. Theo điều 6, điểm 3 của quyết định 493 được sửa đổi trong quyết định 18, nếu khách hàng có từ hai khoản nợ trở lên tại NHTM mà trong đó có một khoản nợ được phân loại vào nhóm có rủi ro cao hơn thì tất cả dư nợ của khách hàng phải phân loại vào cùng một nhóm nợ có rủi ro cao hơn. Đồng thời, NHTM cũng được NHNN cho phép phải chủ động phân loại nợ vào nhóm rủi ro cao hơn theo đánh giá của NHTM khi có những diễn biến bất lợi tác động đến hoạt động kinh doanh của khách hàng, các chỉ tiêu tài chính của khách hàng bị suy giảm...
Tuy nhiên, việc phân loại nhóm nợ như thế nào, đánh giá ra sao là các diễn biến bất lợi, các chỉ tiêu tài chính suy giảm lại hoàn toàn phụ thuộc vào các NHTM chứ không có quy định rõ ràng.
Tỷ lệ nợ xấu thấp nhưng thực tế đã ở một mức cao hơn rất nhiều do khách hàng được cơ cấu nợ. Khi cơ cấu nợ cho khách hàng như vậy, nợ lãi có thể được nhập vào nợ gốc và điều này sẽ làm tăng thêm dư nợ vay của NHTM nhưng thực tế, dòng tiền lại chưa hề quay về với NHTM.
Một trong những biện pháp phổ biến nhất chính là việc các NHTM có thể hỗ trợ giải ngân các khoản vay mới cho các khách hàng để trả nợ cũ hoặc giải ngân cho các dự án đã được hoàn thành để khách hàng trả nợ cũ. Khi đó, khách hàng không bị chuyển nhóm nợ.
Các NHTM cũng có thể tìm cách hỗ trợ cho khách hàng được cơ cấu lại nợ. Việc cơ cấu lại nợ là điều hoàn toàn hợp lý nhằm giúp khách hàng vượt qua giai đoạn khó khăn, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ một cách hợp lý. Nhưng nếu như trong quá trình cơ cấu lại nợ, các NHTM thực hiện mà không đánh giá kỹ khả năng trả nợ đầy đủ gốc và lãi đúng hạn của khách hàng, chỉ thực hiện giải quyết vấn đề khó khăn trả nợ trước mắt cho khách hàng thì điều này sẽ làm gia tăng thêm rủi ro hệ thống NHTM. Tỷ lệ nợ xấu thấp nhưng thực tế đã ở một mức cao hơn rất nhiều do khách hàng được cơ cấu nợ. Khi cơ cấu nợ cho khách hàng như vậy, nợ lãi có thể được nhập vào nợ gốc và điều này sẽ làm tăng thêm dư nợ vay của NHTM nhưng thực tế, dòng tiền lại chưa hề quay về với NHTM.
Việc giải ngân lòng vòng giữa các khách hàng có mối quan hệ liên minh với nhau cũng là một cách để giúp các khách hàng này có dòng tiền để trả nợ. Nếu một khách hàng trong "liên minh" có nguy cơ bị nợ quá hạn hoặc nghiêm trọng hơn là bị nợ xấu, để giúp khách hàng này tránh phải chuyển nhóm nợ, nhiều NHTM có thể cho một doanh nghiệp khác hoặc cá nhân khác trong "liên minh" vay để giúp khách hàng này dùng tiền vay trên trả nợ. Bằng cách này, tuy dư nợ của NHTM với "liên minh" khách hàng trên thực tế không thay đổi, nhưng nợ vẫn được đảm bảo đủ tiêu chuẩn, và không phải trích dự phòng.
Ngoài ra, các NHTM có thể tìm cách uỷ thác các nguồn tiền đầu tư này ra ngoài cho các công ty khác để những công ty này cho vay lại những doanh nghiệp đang có nguy cơ bị nợ quá hạn kia. Dòng tiền chuyển giao thực tế vẫn được NHTM kiểm soát chặt chẽ khi đều luân chuyển ở các tài khoản khác nhau trên cùng NHTM đó.
Không chỉ có các NHTM và các khách hàng tìm cách làm giảm tỷ lệ nợ xấu cho mình, ngay chính các văn bản của NHNN cũng đã tạo điều kiện hỗ trợ cho việc trên. Đối với dư nợ cho vay Vinashin, nhiều NHTM đã không trích dự phòng các khoản cho vay này theo một cơ chế riêng. Sự đổ vỡ của Habubank khiến cho ngân hàng này buộc phải sáp nhập trong khi tỷ lệ nợ xấu ở mức rất thấp là một sự báo động lớn.
Không chỉ có Habubank mà nhiều NHTM khác cũng không trích lập dự phòng với các khoản cho vay Vinashin. Theo ý kiến kiểm toán của công ty kiểm toán Deloitte trong báo cáo tài chính năm 2011 của Oceanbank: "Ngày 31.12.2011, ngân hàng (tức Oceanbank) nắm giữ các khoản tiền gửi, dư nợ tín dụng và đầu tư trái phiếu của ngân hàng với tập đoàn Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam (Vinashin) và một số công ty thuộc tập đoàn Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam đã quá hạn thanh toán. Tuy nhiên, trong năm 2011, căn cứ vào văn bản chỉ đạo của cơ quan quản lý nhà nước về xem xét khoản nợ, cơ cấu lại các khoản nợ của tập đoàn Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam, ngân hàng đã thực hiện ý kiến chỉ đạo, giữ nguyên trạng thái nợ hiện tại và không trích lập dự phòng với các khoản nợ và phải thu trên. Hiện tại, ngân hàng đang tiếp tục làm việc với Vinashin và các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về phương án xử lý và thu hồi các khoản nợ và phải thu này".
Liệu bên cạnh Vinashin, có bao nhiêu doanh nghiệp nhà nước khác mà NHNN đã đồng ý cho phép các tổ chức tín dụng được khoanh nợ, cơ cấu lại khoản nợ và không phải trích lập dự phòng? Nếu các khoản này được công bố thì liệu con số nợ quá hạn, nợ xấu thực tế của hệ thống NHTM sẽ là bao nhiêu?
 
Chiều 27.9, Cơ quan công an đã công bố quyết định khởi tố 4 người, gồm: Ông Trần Xuân Giá-nguyên Chủ tịch HĐQT Ngân hàng ACB; các ông Lê Vũ Kỳ, Trịnh Kim Quang, Phạm Trung Cang-nguyên Phó Chủ tịch HĐQT ACB.

Trước đó -ngày 19.9, Ngân hàng ACB đã phát đi thông cáo báo chí về việc thay đổi nhân sự tại ngân hàng này. Theo đó, ngày 18.9.2012 Hội đồng quản trị (HĐQT) ACB đã họp và quyết định một số thay đổi nhân sự bằng việc ACB chấp thuận việc từ nhiệm của các thành viên HĐQT, gồm ông Trần Xuân Giá - Chủ tịch HĐQT - từ nhiệm vì lý do sức khỏe; ông Lê Vũ Kỳ - Phó Chủ tịch HĐQT - từ nhiệm vì lý do cá nhân; ông Trịnh Kim Quang - Phó Chủ tịch HĐQT - từ nhiệm vì lý do cá nhân.

http://laodong.com.vn/Phap-luat/Khoi...-Gia/85562.bld

http://cafef.vn/2012092703221534CA34...n-xuan-gia.chn
 
Empire state building ở New Yosrk khánh thành năm 1931 đúng lúc phố Wall sụp đổ tạo ra đại suy thoái. Tòa tháp đôi Petronas ở Kuala Lumpua khánh thành 1998 là lúc sụp đổ hệ thống tài chính châu á .
Bitexco Việt Nam cũng khánh thành :)
Theo quan điểm của em thì bong bóng chúng ta chỉ nhận ra nó khi nó đã hình thành, và thấy nó nổ khi nó đã nổ thôi. Trong đời nếu timing 1 lần được bong bóng ắt hẳn sẽ thành bậc trượng phu.
--
Em đồng ý với quan điểm của anh về thị trường lúc này, tuy nhiên chọn được hàng đẹp mà "chân ngắn" cũng như đãi cát tìm vàng - dù sao đi nữa thì doanh nghiệp chính là cái cốt lõi của thị trường chứng khoán, nên tập trung vào cái cốt lõi!
 
Chủ nghĩa tư bản thân hữu (phần 2)

Cần phải nói rằng khái niệm “chủ nghĩa tư bản thân hữu” trước nay được nhắc đến nhiều, tuy nhiên nó chỉ thực sự được xem xét cẩn thận khi cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 nổ ra ở Ðông và Ðông Nam Á.
Trước khi cuộc khủng hoảng này nổ ra, thành công trong tăng trưởng kinh tế của các nền kinh tế mới nổi như Hàn Quốc, Ðài Loan, Hồng Koong, và Singapore được coi là thành công thần kỳ (spectacular success - theo cách nói của World Bank năm 1993).
Nhiều học giả thời đó tìm cách giải thích sự thần kỳ của 4 “con hổ Châu Á” này và các chú “tiểu hổ” tiếp theo ở Ðông Nam Á (bao gồm Thái Lan, Malaysia, và Indonesia) bằng nhiều lý thuyết khác nhau như “mô hình tăng trưởng Ðông Á” hoặc là “nhà nước phát triển” - ám chỉ vai trò dẫn dắt của một nhà nước thông minh nhằm định hướng cho thị trường vượt qua các “bẫy” của kinh tế tự do để đạt được thành công nhanh hơn.
Tuy nhiên, nói như Jong-Sung You (Ðại Học Harvard), thì “cuộc khủng hoảng tài chính ở Châu Á đã làm thay đổi cách nhìn của thế giới về các nước này, đặc biệt là Hàn Quốc. Rất nhiều người, bao gồm cả IMF, đã cho rằng chủ nghĩa tư bản thân hữu ở Hàn Quốc và các nền kinh tế khác trong khu vực chính là thủ phạm gây ra khủng hoảng. Vì thế mà chỉ trong một đêm, Hàn Quốc từ chỗ là hình mẫu lý tưởng của một ‘nhà nước phát triển’ với hệ thống cai trị tốt chuyển sang một đất nước đầy những tệ tham nhũng và bè phái.”
Ðiều này tạo ra nhiều bí ẩn khó giải thích: tại sao vẫn là các nền kinh tế này, vẫn những hệ thống chính trị đó, vẫn các mối quan hệ mang tính bè phái và tham nhũng đó, nhưng lại có thời kỳ lại tạo ra những điều thần kỳ trong phát triển, còn những lúc khác lại đem đến khủng hoảng và đổ vỡ? Thêm nữa, các nền kinh tế Ðông Á đều có mức độ tham nhũng cao, đều là chủ nghĩa tư bản thân hữu, nhưng có những nền kinh tế thành công hơn về mọi mặt (như Hàn Quốc) nhưng lại có những nền kinh tế tệ hơn về mọi mặt (như Philippines)?
David C. Kang - giáo sư Ðại Học Dartmouth - có lẽ là học giả có nghiên cứu sâu sắc nhất về lĩnh vực này. Cuốn sách của ông “Crony Capitalism: Corruption and Development in South Korea and the Philipipnes” là một cuốn sách được nhắc đến thường xuyên trong các nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản thân hữu ở Châu Á. Trong cuốn sách này, Kang đưa ra một lý thuyết về chủ nghĩa tư bản thân hữu nhằm giải đáp cho bí ẩn trên.
Cách tiếp cận của Kang là cách tiếp cận chính trị thực dụng. Theo Kang, bản chất của mối quan hệ giữa các doanh nghiệp và nhà nước là mối quan hệ mang tính tìm kiếm lợi ích từ chính sách (rent seeking). Rent được hiểu là món lợi nhuận đặc biệt tạo ra từ các chính sách.
Thí dụ một chính sách hạn chế nhập khẩu sẽ bóp méo thị trường trong nước về hàng nhập khẩu đó, làm cho nguồn cung bị hạn chế lại và vì thế những doanh nghiệp nào nhận được quotas để nhập khẩu sẽ được lợi vì có thể bán được giá cao. Vì thế chính sách này tạo ra một thứ lợi ích vốn dĩ không có nếu không có chính sách này ra đời, món lợi đó được gọi là rent.
Một thí dụ khác là các chính sách hỗ trợ phát triển, theo đó nhà nước thành lập ra các quỹ (thí dụ quỹ để kích cầu) và cho một số doanh nghiệp nhất định hưởng các khoản ưu đãi lấy ra từ quỹ này như cho vay với chi phí lãi vay rất thấp hoặc bằng không, hay là mua hàng hóa từ các doanh nghiệp này với số lượng lớn (thí dụ như đổ tiền làm cơ sở hạ tầng).
Các quan chức nhà nước có quyền lực để tạo ra các chính sách nhất định và các chính sách này lại tạo ra rent. Các doanh nghiệp biết rõ điều này, và vì thế, họ luôn tìm cách tác động lên các quan chức nhà nước để bộ máy nhà nước sản sinh ra các chính sách tạo ra rent và họ là người hưởng lợi. Các quan chức cũng biết rõ điều này, vì vậy trong khuôn khổ cho phép, họ cũng tìm cách tạo ra các chính sách bóp méo để tạo rent, và phân phát các lợi ích này tới các doanh nghiệp “thân hữu” của họ để các thân hữu này lại chia cho họ một phần rent kiếm được.
Rent seeking là bản chất của quan hệ giữa doanh nghiệp và nhà nước. Thế nhưng, theo Kang, mức độ mà các quan chức tạo ra rent và đi kèm với nó là mức độ tham nhũng, lại phụ thuộc vào cấu trúc của hệ thống doanh nghiệp cũng như cấu trúc của hệ thống chính trị. Lý thuyết của Kang có thể được tóm lược bằng một bảng hai chiều mô tả quan hệ này.
Ông mô tả quyền lực của nhà nước theo hai nhóm: Thứ nhất là các nhà nước mạnh - là các nhà nước mà các quan chức lãnh đạo đất nước có thể tùy ý ra các quyết định/chính sách mà không chịu sự ảnh hưởng đáng kể nào từ xã hội hoặc các chính đảng cạnh tranh (thí dụ như nhà nước độc tài của Park Chung-Hee ở Hàn Quốc).
Thứ hai là các các nhà nước yếu - là các nhà nước mà các quan chức lãnh đạo đất nước không thể tùy tiện ban hành các quyết định hay chính sách mà các quyết định này chịu sự chi phối mạnh mẽ của môi trường chính trị (thí dụ có các chính đảng đối lập mạnh), hoặc của khối doanh nghiệp và các thế lực xã hội khác (thí dụ nhà nước mới thành lập).
Ông cũng mô tả quyền lực của khối doanh nghiệp thành hai nhóm:
Thứ nhất là các nền kinh tế với hệ thống doanh nghiệp tập trung, bao gồm một số ít các doanh nghiệp quy mô rất lớn và có quyền lực hùng mạnh trong xã hội (thí dụ như mô hình các đại công ty Cheabol của Hàn Quốc hoặc Keiretsu của Nhật Bản).
Thứ hai là các nền kinh tế với hệ thống doanh nghiệp khá phân tán và không có các đại công ty có sức mạnh chi phối hệ thống (thí dụ các nền kinh tế thị trường đã phát triển với nhiều công ty, tập đoàn lớn, nhưng không có công ty, tập đoàn nào có sức mạnh lấn át các đối thủ khác).
 
Chủ nghĩa tư bản thân hữu (phần 2)

Cần phải nói rằng khái niệm “chủ nghĩa tư bản thân hữu” trước nay được nhắc đến nhiều, tuy nhiên nó chỉ thực sự được xem xét cẩn thận khi cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 nổ ra ở Ðông và Ðông Nam Á.
Trước khi cuộc khủng hoảng này nổ ra, thành công trong tăng trưởng kinh tế của các nền kinh tế mới nổi như Hàn Quốc, Ðài Loan, Hồng Koong, và Singapore được coi là thành công thần kỳ (spectacular success - theo cách nói của World Bank năm 1993).
Nhiều học giả thời đó tìm cách giải thích sự thần kỳ của 4 “con hổ Châu Á” này và các chú “tiểu hổ” tiếp theo ở Ðông Nam Á (bao gồm Thái Lan, Malaysia, và Indonesia) bằng nhiều lý thuyết khác nhau như “mô hình tăng trưởng Ðông Á” hoặc là “nhà nước phát triển” - ám chỉ vai trò dẫn dắt của một nhà nước thông minh nhằm định hướng cho thị trường vượt qua các “bẫy” của kinh tế tự do để đạt được thành công nhanh hơn.
Tuy nhiên, nói như Jong-Sung You (Ðại Học Harvard), thì “cuộc khủng hoảng tài chính ở Châu Á đã làm thay đổi cách nhìn của thế giới về các nước này, đặc biệt là Hàn Quốc. Rất nhiều người, bao gồm cả IMF, đã cho rằng chủ nghĩa tư bản thân hữu ở Hàn Quốc và các nền kinh tế khác trong khu vực chính là thủ phạm gây ra khủng hoảng. Vì thế mà chỉ trong một đêm, Hàn Quốc từ chỗ là hình mẫu lý tưởng của một ‘nhà nước phát triển’ với hệ thống cai trị tốt chuyển sang một đất nước đầy những tệ tham nhũng và bè phái.”
Ðiều này tạo ra nhiều bí ẩn khó giải thích: tại sao vẫn là các nền kinh tế này, vẫn những hệ thống chính trị đó, vẫn các mối quan hệ mang tính bè phái và tham nhũng đó, nhưng lại có thời kỳ lại tạo ra những điều thần kỳ trong phát triển, còn những lúc khác lại đem đến khủng hoảng và đổ vỡ? Thêm nữa, các nền kinh tế Ðông Á đều có mức độ tham nhũng cao, đều là chủ nghĩa tư bản thân hữu, nhưng có những nền kinh tế thành công hơn về mọi mặt (như Hàn Quốc) nhưng lại có những nền kinh tế tệ hơn về mọi mặt (như Philippines)?
David C. Kang - giáo sư Ðại Học Dartmouth - có lẽ là học giả có nghiên cứu sâu sắc nhất về lĩnh vực này. Cuốn sách của ông “Crony Capitalism: Corruption and Development in South Korea and the Philipipnes” là một cuốn sách được nhắc đến thường xuyên trong các nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản thân hữu ở Châu Á. Trong cuốn sách này, Kang đưa ra một lý thuyết về chủ nghĩa tư bản thân hữu nhằm giải đáp cho bí ẩn trên.
Cách tiếp cận của Kang là cách tiếp cận chính trị thực dụng. Theo Kang, bản chất của mối quan hệ giữa các doanh nghiệp và nhà nước là mối quan hệ mang tính tìm kiếm lợi ích từ chính sách (rent seeking). Rent được hiểu là món lợi nhuận đặc biệt tạo ra từ các chính sách.
Thí dụ một chính sách hạn chế nhập khẩu sẽ bóp méo thị trường trong nước về hàng nhập khẩu đó, làm cho nguồn cung bị hạn chế lại và vì thế những doanh nghiệp nào nhận được quotas để nhập khẩu sẽ được lợi vì có thể bán được giá cao. Vì thế chính sách này tạo ra một thứ lợi ích vốn dĩ không có nếu không có chính sách này ra đời, món lợi đó được gọi là rent.
Một thí dụ khác là các chính sách hỗ trợ phát triển, theo đó nhà nước thành lập ra các quỹ (thí dụ quỹ để kích cầu) và cho một số doanh nghiệp nhất định hưởng các khoản ưu đãi lấy ra từ quỹ này như cho vay với chi phí lãi vay rất thấp hoặc bằng không, hay là mua hàng hóa từ các doanh nghiệp này với số lượng lớn (thí dụ như đổ tiền làm cơ sở hạ tầng).
Các quan chức nhà nước có quyền lực để tạo ra các chính sách nhất định và các chính sách này lại tạo ra rent. Các doanh nghiệp biết rõ điều này, và vì thế, họ luôn tìm cách tác động lên các quan chức nhà nước để bộ máy nhà nước sản sinh ra các chính sách tạo ra rent và họ là người hưởng lợi. Các quan chức cũng biết rõ điều này, vì vậy trong khuôn khổ cho phép, họ cũng tìm cách tạo ra các chính sách bóp méo để tạo rent, và phân phát các lợi ích này tới các doanh nghiệp “thân hữu” của họ để các thân hữu này lại chia cho họ một phần rent kiếm được.
Rent seeking là bản chất của quan hệ giữa doanh nghiệp và nhà nước. Thế nhưng, theo Kang, mức độ mà các quan chức tạo ra rent và đi kèm với nó là mức độ tham nhũng, lại phụ thuộc vào cấu trúc của hệ thống doanh nghiệp cũng như cấu trúc của hệ thống chính trị. Lý thuyết của Kang có thể được tóm lược bằng một bảng hai chiều mô tả quan hệ này.
Ông mô tả quyền lực của nhà nước theo hai nhóm: Thứ nhất là các nhà nước mạnh - là các nhà nước mà các quan chức lãnh đạo đất nước có thể tùy ý ra các quyết định/chính sách mà không chịu sự ảnh hưởng đáng kể nào từ xã hội hoặc các chính đảng cạnh tranh (thí dụ như nhà nước độc tài của Park Chung-Hee ở Hàn Quốc).
Thứ hai là các các nhà nước yếu - là các nhà nước mà các quan chức lãnh đạo đất nước không thể tùy tiện ban hành các quyết định hay chính sách mà các quyết định này chịu sự chi phối mạnh mẽ của môi trường chính trị (thí dụ có các chính đảng đối lập mạnh), hoặc của khối doanh nghiệp và các thế lực xã hội khác (thí dụ nhà nước mới thành lập).
Ông cũng mô tả quyền lực của khối doanh nghiệp thành hai nhóm:
Thứ nhất là các nền kinh tế với hệ thống doanh nghiệp tập trung, bao gồm một số ít các doanh nghiệp quy mô rất lớn và có quyền lực hùng mạnh trong xã hội (thí dụ như mô hình các đại công ty Cheabol của Hàn Quốc hoặc Keiretsu của Nhật Bản).
Thứ hai là các nền kinh tế với hệ thống doanh nghiệp khá phân tán và không có các đại công ty có sức mạnh chi phối hệ thống (thí dụ các nền kinh tế thị trường đã phát triển với nhiều công ty, tập đoàn lớn, nhưng không có công ty, tập đoàn nào có sức mạnh lấn át các đối thủ khác).
 
Mood'ys hạ điểm tín nhiệm của Việt Nam do ngân hàng quá yếu kém


Hôm nay, 28/09/2012, cơ quan thẩm định tài chính quốc tế Moody's đã hạ điểm của Việt Nam, với lý do là tình trạng yếu kém của hệ thống ngân hàng có nguy cơ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.


Cụ thể, Moody's hạ điểm tín nhiệm đối với trái phiếu do Việt Nam phát hành từ « B1 » xuống thành « B2 », kéo theo việc hạ điểm của 8 ngân hàng Việt Nam. Moody's cũng hạ điểm đối với tiền gửi ngoại tệ dài hạn của Việt Nam từ « B2 » xuống « B3 ». Nhưng triển vọng tín dụng dài hạn của Việt Nam được Moody's duy trì ở mức ổn định.

Việc Moody's hạ điểm tín nhiệm rất có thể sẽ làm chậm thêm tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, vốn đã bị tác động của suy thoái toàn cầu, bởi vì khả năng cấp tín dụng của các ngân hàng để hỗ trợ hoạt động kinh tế sẽ kém hơn.

Chính sách siết chặt tín dụng từ đầu năm ngoái đã giúp giảm nhiệt cho nền kinh tế Việt Nam sau một thời gian lạm phát tăng vọt, nhưng nó cũng đã góp phần làm suy thoái chất lượng tín dụng, trong một hệ thống ngân hàng vốn thiếu sự minh bạch và nay có tỷ lệ nợ xấu cao nhất Đông Nam Á. Lạm phát đã được kềm chế, nhưng mức tăng trưởng kinh tế cũng đã sụt giảm mạnh xuống dưới mức 5%.

Việc Moody's hạ điểm tín nhiệm đối với Việt Nam diễn ra sau khi hôm qua công an Việt Nam loan báo khởi tố cựu bộ trưởng Trần Xuân Giá, nguyên chủ tịch ngân hàng ACB, ngân hàng đang bị tai tiếng tài chính. Ông Trần Xuân Giá bị khởi tố với tội danh « cố ý làm trái quy định, gây hậu quả nghiêm trọng ».

Theo nhận định của tờ Financial Times hôm nay, vào lúc mà các lãnh đạo chính trị của Việt Nam đang chịu áp lực buộc phải có hành động, hàng chục lãnh đạo doanh nghiệp Nhà nước và lãnh đạo ngân hàng đã bị bắt hoặc bị truy tố. Thế nhưng, do sự thiếu minh bạch trong hệ thống tư pháp của Việt Nam, nhiều nhà quan sát nghĩ rằng, những vụ bắt bớ nói trên vừa là do nhu cầu tái cấu trúc nền kinh tế, nhưng cũng vừa là hậu quả của các vụ thanh toán chính trị giữa các phe đảng trong giới cầm quyền.

Chính phủ Việt Nam đã nêu ý định thành lập một công ty để mua lại nợ xấu ngân hàng, một biện pháp mà các cơ quan xếp hạng tín nhiệm đánh giá là một bước đi theo hướng tốt. Nhưng giới lãnh đạo Hà Nội đã bác bỏ khả năng nhờ sự trợ giúp của Quỹ Tiền tệ Quốc tế để giải quyết vấn đề nợ xấu và tái cơ cấu hệ thống ngân hàng.

Tám ngân hàng Việt Nam bị Moody's hạ điểm:

- ACB (Ngân hàng Thương mại Á Châu - Asia Commercial Bank)

- BIDV (Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Bank for Investment & Development of Vietnam)

- MB ((Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội - Military Commercial Joint Stock Bank)

- SHB (Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội - Saigon - Hanoi Commercial Joint Stock Bank)

- SacomBank (Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín - Saigon Thuong Tin Commercial Joint-Stock Bank)

- Techcombank (Ngân hàng Kỹ Thương Việt Nam)

- VietinBank (Ngân Hàng Công Thương Việt Nam - Vietnam Bank for Industry and Trade)

- VIB (Ngân hàng Quốc tế - Vietnam International Bank)
 
Phát biểu của Tổng thống Obama tại Phiên họp thứ 67 Đại hội đồng LHQ ngày 25/9/2012

Remarks from President Barack Obama to the 67th UN General Assembly on Sep 25, 2012 →


Trụ sở LHQ, New York - Thưa Ngài Chủ tịch, ông Tổng thư ký, các đoàn đại biểu thành viên, quý Bà và quý Ông: Tôi muốn bắt đầu ngày hôm nay bằng cách kể với bạn về một người Hoa Kỳ tên là Chris Stevens.

Chris sinh ra tại một thị trấn được gọi là Grass Valley, California, là con trai của một luật sư và một nhạc sĩ. Là một người đàn ông trẻ tuổi, Chris gia nhập Peace Corps, và dạy tiếng Anh tại Ma-rốc. Và ông đã yêu thương và tôn trọng nhân dân Bắc Phi và Trung Đông. Ông sẽ thực hiện cam kết đó trong suốt cuộc đời của ông. Là một nhà ngoại giao, ông đã làm việc từ Ai Cập đến Syria, từ Saudi Arabia tới Libya. Ông được biết đến khi đi bộ trên đường phố của các thành phố nơi ông làm việc, nếm các món ăn địa phương, gặp gỡ càng nhiều người cành tốt, nói tiếng Ả Rập, lắng nghe với một nụ cười vui vẻ.

Chris đã đến Benghazi trong những ngày đầu của cuộc cách mạng Libya, trên một chuyến bay vận tải. Là đại diện của Hoa Kỳ, ông đã giúp người dân Libya đối phó với xung đột bạo lực, chăm sóc cho những người bị thương, và phát thảo một viễn cảnh cho mai sau trong đó các quyền của tất cả người Libya sẽ được tôn trọng. Và sau cuộc cách mạng, ông ủng hộ sự ra đời của một nền dân chủ mới, như Libya đã tổ chức cuộc bầu cử, và thiết lập các tổ chức mới, và bắt đầu tiến về phía trước sau nhiều thập kỷ của chế độ độc tài.

Chris Stevens yêu công việc của mình. Ông tự hào về đất nước mà ông phục vụ, và nhìn thấy phẩm giá những người mà ông đã gặp. Và cách đây hai tuần, ông đến Benghazi để xem xét kế hoạch thành lập một trung tâm văn hóa mới và hiện đại hoá một bệnh viện. Đó là lúc khu tòa nhà của Hoa Kỳ bị tấn công. Cùng với ba đồng nghiệp của ông, Chris đã bị giết chết trong thành phố mà ông đã cứu giúp. Ông năm nay 52 tuổi.

Tôi nói với bạn câu chuyện này bởi vì Chris Stevens thể hiện cái tốt đẹp nhất của Hoa Kỳ. Giống như các viên chức cấp cao ngoại giao đồng nghiệp của mình, ông đã xây dựng cây cầu bắc qua các đại dương và các nền văn hóa, và đã đầu tư sâu rộng trong hợp tác quốc tế mà Liên Hợp Quốc đại diện cho. Ông đã hành động với sự khiêm nhường, nhưng ông cũng biện minh cho một loạt các nguyên tắc – một niềm tin rằng các cá nhân được tự do quyết định số phận của mình, và sống trong tự do, nhân phẩm, công lý, và các cơ hội.

Các cuộc tấn công vào dân thường ở Benghazi là những cuộc tấn công vào Hoa Kỳ. Chúng tôi rất biết ơn về sự hỗ trợ nhận được từ chính phủ Libya và từ người dân Libya. Không có gì phải nghi ngờ rằng chúng tôi sẽ không ngừng truy tìm những kẻ giết người và đưa chúng ra trước công lý. Và tôi cũng đánh giá cao trong những ngày gần đây, các nhà lãnh đạo của các nước khác trong khu vực – bao gồm Ai Cập, Tunisia và Yemen – đã thực hiện các bước để bảo vệ các cơ sở ngoại giao của chúng tôi, và kêu gọi bình tĩnh. Và các chính quyền tôn giáo trên toàn cầu cũng đã làm như vậy.

Nhưng bạn cần biết, các cuộc tấn công trong hai tuần qua không chỉ đơn giản là một cuộc tấn công vào Hoa Kỳ. Nó cũng là một cuộc tấn công vào mọi chuẩn mực mà Liên Hiệp Quốc đã thành lập – ý niệm về mọi người có thể giải quyết sự khác biệt của họ một cách hòa bình; ngoại giao có thể thay thế chiến tranh; trong một thế giới phụ thuộc lẫn nhau, tất cả chúng ta có quyền lợi trong việc hướng tới cơ hội lớn hơn và an ninh cho các công dân của chúng ta.

Nếu chúng ta nghiêm túc phát huy những chuẩn mực này, thì sẽ không đủ để đặt thêm cảnh vệ ở phía trước một sứ quán, hoặc đưa ra lời hối tiếc và chờ đợi sự phẫn nộ đi qua. Nếu chúng ta nghiêm túc về những chuẩn mực ấy, chúng ta phải nói chuyện một cách trung thực về những nguyên nhân sâu xa hơn của cuộc khủng hoảng – bởi vì chúng ta phải đối mặt với sự lựa chọn giữa dùng vũ lực mà nó sẽ đẩy chúng ta ra xa nhau và niềm ao ước mà chúng ta đều có chung.

Hôm nay, chúng ta phải tái khẳng định rằng tương lai của chúng ta sẽ được xác định bởi những người như Chris Stevens – và không phải bởi những kẻ giết ông ấy. Hôm nay, chúng ta phải tuyên bố rằng bạo lực và bất khoan dung không có chỗ đứng trong Liên Hiệp Quốc.
 
Đã gần hai năm kể từ khi một người bán hàng ở Tunisia tự thiêu để phản đối tham nhũng áp bức ở đất nước của mình, và đã gây ra những gì được biết đến như là mùa xuân Ả Rập. Và kể từ đó, thế giới đã bị cuốn vào bởi sự chuyển đổi diễn ra, và Hoa Kỳ đã hỗ trợ các lực lượng thay đổi.

Chúng tôi có được cảm hứng từ các cuộc biểu tình của người dân Tunisia lật đổ một nhà độc tài, bởi vì chúng tôi nhận ra niềm tin của chúng tôi nằm trong khát vọng của đàn ông và phụ nữ xuống đường.

Chúng tôi nhấn mạnh về việc thay đổi ở Ai Cập, bởi vì hỗ trợ của chúng tôi cho dân chủ cuối cùng đưa chúng tôi vào phía người dân.

Chúng tôi ủng hộ một quá trình chuyển đổi lãnh đạo tại Yemen, vì lợi ích của người dân không còn được phục vụ bởi một hiện trạng tham nhũng.

Chúng tôi đã can thiệp vào Libya cùng với một liên minh rộng lớn, và với nhiệm vụ của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, bởi vì chúng tôi có khả năng ngăn chặn việc giết hại những người vô tội, và bởi vì chúng tôi tin rằng những khát vọng của người dân mạnh mẽ hơn một bạo chúa.

Và như chúng ta gặp nhau ở đây, chúng ta một lần nữa tuyên bố rằng chế độ của Bashar al-Assad phải kết thúc để những đau khổ của người dân Syria có thể dừng lại và một bình minh mới có thể bắt đầu.

Chúng tôi đã có những quan điểm này bởi vì chúng tôi tin rằng tự do và tự quyết không phải là duy nhất cho một nền văn hoá nào. Đây không phải là những giá trị của riêng Hoa Kỳ hoặc của Phương Tây – mà là những giá trị của toàn thế giới. Và ngay cả khi có thách thức to lớn xảy đến trong quá trình chuyển đổi dân chủ, tôi tin chắc rằng cuối cùng chính phủ của dân, do dân, và vì dân hầu như có khả năng mang lại sự ổn định, thịnh vượng, và cơ hội cá nhân phục vụ như nền tảng cho hòa bình thế giới.

Vì vậy, chúng ta hãy nhớ rằng đây là một mùa của sự tiến bộ. Lần đầu tiên trong nhiều thập kỷ qua, Tunisia, Ai Cập và Libya đã bỏ phiếu cho các nhà lãnh đạo mới trong cuộc bầu cử đáng tin cậy, cạnh tranh và công bằng. Tinh thần dân chủ này không bị hạn chế với thế giới Ả Rập. Trong năm qua, chúng ta đã nhìn thấy quá trình chuyển đổi quyền lực một cách êm thắm ở Malawi và Senegal, và một tổng thống mới ở Somalia. Ở Miến Điện, một tổng thống đã thả tù nhân chính trị và mở cửa một xã hội khép kín, một người bất đồng chính kiến ​​can đảm đã được bầu vào Quốc hội, và người dân mong đợi tiếp tục cải cách xa hơn. Trên toàn cầu, người dân đang vận động để tiếng nói của họ được lắng nghe, nhấn mạnh trên phẩm giá bẩm sinh của họ, và quyền quyết định tương lai của họ.

Và cuộc khủng hoảng của những tuần gần đây nhắc nhở chúng ta rằng con đường dân chủ không kết thúc với việc đầu phiếu. Nelson Mandela đã từng nói: “Để được tự do không phải là chỉ đơn thuần là ném xiềng xích gông họ, mà còn phải sống theo cách tôn trọng và tăng cường sự tự do của những người khác”. (Vỗ tay)

Dân chủ chân chính đòi hỏi các công dân không thể bị tống vào tù vì những gì họ tin, và các doanh nghiệp có thể được mở mà không phải trả tiền hối lộ. Nó phụ thuộc vào người dân có hay không quyền tự do nói ra những suy tư của họ và tụ họp mà không sợ, và phụ thuộc vào nguyên tắc pháp quyền và quyền theo đúng thủ tục pháp lý để đảm bảo các quyền của tất cả mọi người.

Nói cách khác, dân chủ chân chính và tự do thực sự – là công việc khó khăn. Những người cầm quyền phải phản kháng sự lôi cuốn vào việc đàn áp những người bất đồng chính kiến. Trong thời buổi kinh tế khó khăn, các quốc gia thường bị lôi cuốn – có thể bị lôi cuốn vào việc tập hợp lực lượng xung quanh kẻ thù đã nhận thức, ở trong và ở nước ngoài, chứ không chiu tập trung vào công việc nhọc nhằn của cải cách.

Hơn nữa, luôn luôn có những từ chối sự tiến bộ của con người – kẻ độc tài bám lấy quyền lực, lợi ích tham nhũng phụ thuộc vào tình trạng hiện tại, và những kẻ cực đoan thổi bùng lửa ngọn của thù hận và chia rẽ. Từ Bắc Ireland tới Nam Á, từ châu Phi đến châu Mỹ, từ vùng Balkan đến bờ Thái Bình Dương, chúng ta đã chứng kiến những ​​cơn co giật có thể đi kèm với các hiệu ứng chuyển tiếp cho một trật tự chính trị mới.

Theo thời gian, những mâu thuẫn phát sinh dọc theo dòng phái sai lệch của chủng tộc hay bộ lạc. Và thường phát sinh từ những khó khăn của hòa giải truyền thống và đức tin với sự đa dạng và phụ thuộc lẫn nhau của thế giới hiện đại. Ở mỗi quốc gia, có những người thấy tín ngưỡng tôn giáo khác nhau bị đe dọa; ở mọi nền văn hóa, những người yêu thích sự tự do cho bản thân mình phải tự hỏi bao nhiêu họ sẵn sàng bao dung cho tự do của những người khác.

Đó là những gì chúng ta đã thấy diễn ra trong hai tuần qua, một đoạn video thô và kinh tởm đã gây ra sự phẫn nộ trên khắp thế giới Hồi giáo. Bây giờ, tôi đã làm rõ ràng rằng chính phủ Hoa Kỳ không có gì để làm với video này, và tôi tin rằng thông điệp của nó phải bị từ chối bởi tất cả những ai tôn trọng nhân loại chung của chúng ta.

Đó là một sự xúc phạm không chỉ đối với người Hồi giáo, mà cả với Hoa Kỳ – như thành phố ở bên ngoài những bức tường này đã rõ, chúng tôi là một quốc gia đã chào đón những người thuộc mọi chủng tộc và mọi tôn giáo. Chúng tôi là nhà cho những người Hồi giáo tôn thờ trên khắp đất nước của chúng tôi. Chúng tôi không chỉ tôn trọng tự do tôn giáo, chúng tôi còn có luật pháp bảo vệ những cá nhân bị tổn hại vì cách họ nhìn hoặc những gì họ tin. Chúng tôi hiểu lý do tại sao những người tấn công video này, bởi vì hàng triệu công dân của chúng tôi là trong số đó.

Tôi biết có một số người hỏi tại sao chúng tôi không cấm đoạn video như vậy. Và câu trả lời là nó được minh định trong luật pháp của chúng tôi: Hiến pháp của chúng tôi bảo vệ quyền thực thi tự do ngôn luận.

Ở đây tại Hoa Kỳ, vô số các ấn phẩm khiêu khích hành vi phạm tội. Giống như tôi, đa số người Hoa Kỳ là Kitô hữu, nhưng chúng tôi không cấm phạm thượng chống lại niềm tin thiêng liêng nhất của chúng tôi. Là Tổng thống của Hoa Kỳ và Tổng tư lệnh của quân đội, tôi chấp nhận rằng mọi người sẽ réo tên tôi như những thứ xấu xa mỗi ngày – (cười) – và tôi sẽ luôn luôn bảo vệ quyền để họ làm như vậy. (Vỗ tay)

Người Hoa Kỳ đã chiến đấu và chết trên khắp thế giới để bảo vệ quyền của tất cả mọi người được bày tỏ quan điểm của họ, ngay cả những quan điểm mà chúng tôi hết sức không đồng ý. Chúng tôi không làm như vậy bởi vì chúng tôi thành ra trợ giúp phát biểu hận thù, vì những tiền nhân sáng lập của chúng tôi đã hiểu rằng nếu không có các biện pháp bảo vệ như vậy, thì quyền của mỗi cá nhân bày tỏ quan điểm riêng của mình và thực hành đức tin của riêng mình có thể bị đe dọa. Chúng tôi làm như vậy bởi vì trong một xã hội đa nguyên, những nỗ lực để hạn chế phát biểu có thể nhanh chóng trở thành một công cụ để bịt miệng những người chỉ trích và đàn áp dân tộc thiểu số.
 
Chúng tôi làm như vậy bởi vì sức mạnh của đức tin trong cuộc sống của chúng tôi, và niềm đam mê khác biệt tôn giáo có thể thiêu cháy, vũ khí mạnh nhất chống lại lời nói hận thù không phải là đàn áp, mà là nói nhiều hơn nữa – những tiếng nói của lòng khoan dung quy tập chống lại sự cố chấp và lời phạm thượng, và nâng các giá trị của sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau.

Bây giờ, tôi biết rằng không phải tất cả các nước trong LHQ chia sẻ sự hiểu biết cụ thể về bảo vệ tự do ngôn luận. Chúng tôi thừa nhận điều đó. Nhưng vào năm 2012, tại một thời điểm khi bất cứ ai với một điện thoại di động có thể truyền bá quan điểm phạm tội trên toàn thế giới bằng cách bấm vào một nút, nhận thức cho rằng chúng ta có thể kiểm soát dòng chảy của thông tin là lỗi thời. Câu hỏi ngay sau đó là chúng ta phản ứng như thế nào?

Và với điều này, chúng ta phải đồng ý rằng: Không có lời phát biểu cho việc biện minh bạo lực mù quáng. (Vỗ tay). Không có lời bào chữa cho việc giết hại những người vô tội. Không có video biện minh cho một cuộc tấn công vào một đại sứ quán. Không có vu khống cung cấp một cái cớ để người ta đốt một nhà hàng ở Lebanon, hoặc phá hủy một trường học ở Tunis, hoặc gây tang tóc và hủy hoại ở Pakistan.

Trong thế giới hiện đại với công nghệ hiện đại, để đối phó với cách phát biểu hận thù chúng tôi trao quyền cho bất kỳ cá nhân tham gia trong lời phát biểu như vậy để tạo ra sự hỗn loạn quanh thế giới. Chúng tôi trao cái tệ hại nhất của chúng tôi nếu đó là do cách chúng tôi phản ứng.

Nói rộng hơn, các sự kiện của hai tuần qua cũng nói lên sự cần thiết cho tất cả chúng ta giải quyết một cách trung thực các căng thẳng giữa phương Tây và thế giới Ả Rập trong lúc tiến theo hướng dân chủ.

Bây giờ, hãy để tôi làm cho rõ: Cũng như chúng tôi không thể giải quyết mọi vấn đề trên thế giới, Hoa Kỳ đã không và sẽ không tìm cách ảnh hưởng đến các kết quả của quá trình chuyển đổi dân chủ ở nước ngoài. Chúng tôi không mong đợi các quốc gia khác đồng ý với chúng tôi về mọi vấn đề, chúng tôi cũng không cho rằng bạo lực trong những tuần qua, lời phát biểu hận thù của một số cá nhân là đại diện cho quan điểm của đại đa số người Hồi giáo, cũng như không cho rằng bất kỳ quan điểm nào của người làm ra video này là đại diện cho những người Hoa Kỳ. Tuy nhiên, tôi tin rằng đây là nghĩa vụ của tất cả các nhà lãnh đạo ở tất cả các quốc gia trong việc lên tiếng mạnh mẽ chống lại bạo lực và chủ nghĩa cực đoan. (Vỗ tay)

Đã đến lúc gạt ra bên ngoài những người – ngay cả khi không trực tiếp dùng đến bạo lực – sử dụng lòng hận thù với Hoa Kỳ, hoặc phương Tây, hoặc Israel, như là nguyên tắc trung tâm tổ chức hoạt động chính trị. Đó chỉ là che đậy, và đôi khi là một cái cớ, cho những người sử dụng bạo lực.

Nhãn hiệu chính trị đó – đưa Đông ra chống với Tây, và Nam chống Bắc, người Hồi giáo chống lại người Kitô giáo, Ấn Độ giáo và Do Thái giáo, không thể cung cấp triển vọng của tự do. Đối với thanh niên, nó chỉ tạo ra hy vọng sai lầm. Đốt lá cờ Hoa Kỳ không dạy được gì cho một đứa trẻ. Phá nát một nhà hàng không làm đầy được bụng đói. Tấn công đại sứ quán sẽ không tạo ra một công việc nào. Nhãn hiệu chính trị đó chỉ làm cho nó khó khăn hơn để đạt được những gì chúng ta phải làm với nhau: giáo dục trẻ em của chúng ta, và tạo ra những cơ hội mà họ xứng đáng có, bảo vệ nhân quyền, và mở rộng triển vọng của dân chủ.

Cần hiểu rằng Hoa Kỳ sẽ không bao giờ rút lui khỏi thế giới. Chúng tôi sẽ mang lại công lý cho những người gây tổn hại cho các công dân và bạn bè của chúng tôi, và sẽ đứng cùng với các đồng minh của chúng tôi. Chúng tôi sẵn sàng hợp tác với các nước trên thế giới để làm sâu sắc thêm quan hệ thương mại và đầu tư, và khoa học và công nghệ năng lượng, và phát triển – tất cả những nỗ lực đó có thể châm ngòi cho tăng trưởng kinh tế cho tất cả các nước và ổn định chuyển đổi dân chủ.

Tuy nhiên, những nỗ lực như vậy phụ thuộc vào tinh thần vì lợi ích chung và sự tôn trọng lẫn nhau. Không một chính phủ hoặc công ty, không một trường học hoặc tổ chức phi chính phủ sẽ tự tin làm việc trong một đất nước mà người dân đang bị nguy hiểm. Để quan hệ hợp tác có hiệu quả, công dân của chúng tôi phải được an toàn và những nỗ lực của chúng tôi phải được hoan nghênh.

Loại chính trị chỉ dựa trên sự tức giận – dựa trên phân chia thế giới giữa “chúng ta” và “họ” – không chỉ đi ngược với hợp tác quốc tế, mà cuối cùng nó sẽ làm suy yếu những người chịu đựng nó. Tất cả chúng ta có quyền lợi trong việc đối mặt với các lực lượng này.

Chúng ta hãy nhớ rằng người Hồi giáo đã chịu đựng nhiều nhất trong tay của chủ nghĩa cực đoan. Cùng ngày thường dân của chúng tôi bị giết chết ở Benghazi, một cảnh sát Thổ Nhĩ Kỳ đã bị ám sát ở Istanbul chỉ vài ngày trước khi đám cưới của mình, hơn 10 người Yemen đã thiệt mạng trong một vụ đánh bom xe ở Sana’a, cha mẹ của nhiều trẻ em Afghanistan đã phải than khóc chỉ vài ngày sau khi họ bị giết bởi một kẻ đánh bom tự sát ở thủ đô Kabul.

Ban đầu sự thúc đẩy theo hướng bất khoan dung và bạo lực có thể được tập trung vào phương Tây, nhưng theo thời gian nó không thể dung nạp. Sự thúc đẩy tương tự theo hướng chủ nghĩa cực đoan lại được sử dụng để biện minh cho cuộc chiến tranh giữa người Sunni và Shia, giữa các bộ tộc và dòng tộc. Nó không dẫn đến hùng cường và thịnh vượng mà đến sự hỗn loạn. Trong các quốc gia có đa số người Hồi giáo, chưa đầy hai năm, chúng ta đã thấy phần lớn biểu tình ôn hòa mang lại thay đổi nhiều hơn trong một thập kỷ của bạo lực. Và những kẻ cực đoan hiểu điều này. Bởi vì họ không có gì để đóng góp cải thiện cuộc sống của người dân, bạo lực là cách duy nhất của họ để tồn tại nổi trội. Họ không xây dựng, họ chỉ phá hủy.
 
Đã đến lúc hãy để lại phía sau các cuộc kêu gọi bạo lực và thứ chính trị chia rẽ. Trên rất nhiều vấn đề, chúng ta phải đối mặt với một sự lựa chọn giữa sự hứa hẹn của tương lai, hay các nhà tù của quá khứ. Và chúng ta không thể để nó sai. Chúng ta phải nắm bắt thời điểm này. Và Hoa Kỳ sẵn sàng làm việc với tất cả những ai sẵn sàng nắm lấy một tương lai tốt đẹp hơn.

Tương lai không phải thuộc về những kẻ nhắm mục tiêu các Kitô hữu Coptic ở Ai Cập – mà nó phải được khẳng định bởi những người hô vang “người Hồi giáo, người Kitô, chúng ta là một”, ở Quảng trường Tahrir. Tương lai không phải thuộc về những kẻ bắt nạt phụ nữ – mà nó phải được nắn tạo bởi những cô gái đi học, và những người đấu tranh cho một thế giới mà con gái của chúng ta có thể sống giấc mơ của nó giống như những con trai của chúng ta. (Vỗ tay)

Tương lai không phải thuộc về những kẻ tham nhũng ,vài kẻ ăn cắp tài nguyên quốc gia – nó phải được quyết định bởi các sinh viên và giám đốc, công nhân và chủ doanh nghiệp tìm kiếm một sự thịnh vượng hơn nữa cho tất cả mọi người. Những người này là phụ nữ và nam giới mà Hoa Kỳ đứng chung và tương lai của họ chúng tôi sẽ hỗ trợ.

Tương lai không phải thuộc về những kẻ phỉ báng vị tiên tri của Hồi giáo. Nhưng cũng đáng tin được khi những người lên án phỉ báng cũng phải lên án sự thù hận là xúc phạm, cái mà chúng ta đã thấy trong những hình ảnh của Chúa Giêsu Kitô, hoặc lên án nhà thờ bị phá hủy, hoặc vấn đề tàn sát người Do Thái bị từ chối. (Vỗ tay)

Chúng ta hãy lên án sự kích động chống lại người Hồi giáo Sufi và người hành hương Shiite. Đã đến lúc để ý đến những lời của Gandhi: “Bất bao dung tự bản thân nó là một hình thức của bạo lực và một trở ngại cho sự phát triển của một tinh thần dân chủ thực sự” (Vỗ tay) Cùng với nhau, chúng ta phải làm việc hướng tới một thế giới mà chúng ta được củng cố bởi sự khác biệt của chúng ta, chứ không phải được định nghĩa bởi những kẻ ấy. Đó là những gì Hoa Kỳ là hiện thân, đó là viễn cảnh mà chúng tôi sẽ hỗ trợ.

Đối với dân Israel và Palestine, tương lai không phải thuộc về những kẻ quay lưng lại với triển vọng hòa bình. Chúng ta để lại phía sau những kẻ phát triển mạnh nhờ xung đột, những kẻ từ chối quyền của Israel tồn tại. Con đường này là khó khăn, nhưng đích đến là rõ ràng – một nhà nước Do Thái an toàn của Israel và Palestine độc ​​lập, thịnh vượng. (Vỗ tay). Cần hiểu rằng một cảnh hòa bình như vậy phải đến từ một thỏa thuận công bình giữa các bên, nước Hoa Kỳ sẽ theo cùng với tất cả những ai đang chuẩn bị để thực hiện cuộc hành trình đó.

Ở Syria, tương lai không phải thuộc về một kẻ độc tài đã thảm sát người dân của mình. Nếu có một lý do để kêu gọi biểu tình trên thế giới ngày hôm nay, kêu gọi biểu tình ôn hòa, thì đó là một chế độ tra tấn trẻ em và bắn rocket vào các tòa nhà chung cư. Và chúng ta phải luôn tham gia để đảm bảo rằng những gì khởi sự từ việc công dân đòi hỏi quyền lợi của mình không kết thúc trong một vòng bạo lực sắc tộc.

Cùng với nhau, chúng ta phải đứng với những người Syria, những người tin vào một viễn cảnh khác – một Syria thống nhất và toàn diện, nơi mà trẻ em không cần phải lo sợ chính phủ của họ, và tất cả các dân Syria – người Sunni và Alawites , người Kurd và Kitô – có tiếng nói trong việc quản trị họ như thế nào. Đó là những gì Hoa Kỳ ủng hộ. Đó là kết quả mà chúng tôi sẽ làm việc qua các biện pháp trừng phạt và hậu quả dành cho những kẻ hành hạ ngược đãi, và làm việc qua sự trợ giúp và hỗ trợ cho những người làm việc vì lợi ích chung này. Bởi vì chúng tôi tin rằng người dân Syria nắm lấy viễn cảnh này sẽ có sức mạnh và tính hợp pháp để đi tới.

Tại Iran, chúng tôi nhìn thấy con đường của ý thức hệ bạo lực và vô trách nhiệm dẫn dắt. Người dân Iran có một lịch sử đáng ghi dấu và cổ xưa, và nhiều người Iran muốn được hưởng hòa bình và thịnh vượng cùng với các láng giềng của họ. Nhưng cũng từ hạn chế các quyền của người dân, chính phủ Iran tiếp tục yểm trợ cho nhà độc tài tại Damascus và hỗ trợ các nhóm khủng bố ở nước ngoài. Lại thêm một lần nữa, Iran đã không có cơ hội để chứng minh rằng chương trình hạt nhân của họ là hòa bình, và để đáp ứng các nghĩa vụ của mình tại Liên Hợp Quốc.

Vì vậy, hãy để tôi được làm rõ ràng. Hoa Kỳ muốn giải quyết vấn đề thông qua ngoại giao, và chúng tôi tin rằng vẫn còn thời gian và không gian để làm như vậy. Nhưng thời gian đó không phải là không có giới hạn. Chúng tôi tôn trọng quyền của các quốc gia sở hữu năng lượng hạt nhân cho mục đích hòa bình, nhưng một trong những mục đích của Liên Hiệp Quốc là phải thấy rằng chúng ta khai thác năng lượng đó vì hòa bình. Và chắc chắn, một Iran có vũ khí hạt nhân không phải là một thách thức có thể bị ngăn chặn. Mà nó sẽ đe dọa loại bỏ Israel, an ninh của các quốc gia vùng Vịnh, và sự ổn định của nền kinh tế toàn cầu. Nó có nguy cơ gây ra một cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân trong khu vực, và làm phân rã hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân. Đó là lý do tại sao liên minh các quốc gia buộc chính phủ Iran phải có trách nhiệm. Và đó là lý do tại sao Hoa Kỳ sẽ làm những gì có thể để ngăn chặn Iran có được vũ khí hạt nhân.
 
Từ trãi nghiệm đau đớn chúng ta biết rằng con đường dẫn tới an ninh và thịnh vượng không nằm ngoài ranh giới của luật pháp quốc tế và tôn trọng nhân quyền. Đó là lý do tại sao tổ chức này được thành lập từ đống đổ nát của cuộc xung đột. Đó là lý do tại sao tự do đã chiến thắng chế độ độc tài trong Chiến tranh Lạnh. Và đó cũng là bài học của hai thập kỷ vừa qua.

Lịch sử cho thấy rằng hòa bình và tiến bộ đến với những ai có những lựa chọn đúng đắn. Các quốc gia trong tất cả các phần của thế giới đã đi qua con đường khó khăn này. Châu Âu, chiến trường đẫm máu nhất của thế kỷ 20, đã thống nhất, tự do và trong hòa bình. Từ Brazil đến Nam Phi, từ Thổ Nhĩ Kỳ sang Hàn Quốc, từ Ấn Độ đến In-đô-nê-xi-a, những người thuộc các chủng tộc khác nhau, tôn giáo và truyền thống đã đưa hàng triệu người thoát khỏi đói nghèo, trong khi tôn trọng các quyền của công dân của mình và đáp ứng các trách nhiệm của họ vì quyền lợi các quốc gia họ.

Và đó là vì sự tiến bộ mà tôi đã chứng kiến ​​trong cuộc đời, sự tiến bộ mà tôi đã chứng kiến ​​sau gần bốn năm làm Tổng thống, tôi vẫn hy vọng về thế giới mà chúng ta đang sống. Cuộc chiến ở Iraq chấm dứt. Quân đội Hoa Kỳ đã trở về nhà. Chúng tôi đã bắt đầu một quá trình chuyển đổi ở Afghanistan, Hoa Kỳ và các đồng minh sẽ kết thúc cuộc chiến tranh đúng tiến độ vào năm 2014. Al Qaeda đã bị suy yếu, Osama bin Laden không còn nữa. Quốc gia đã đến với nhau để khóa chặn các vật liệu hạt nhân, Hoa Kỳ và Nga đã giảm kho vũ khí. Chúng tôi đã nhìn thấy lựa chọn khó khăn – từ Naypyidaw đến Cairo đến Abidjan – trong việc đặt thêm quyền lực vào tay công chúng.

Tại thời điểm thách thức kinh tế, thế giới đã đến với nhau để mở rộng sự thịnh vượng. Thông qua G20, chúng tôi đã hợp tác với các nước đang phát triển để giữ cho thế giới đi trên con đường phục hồi. Hoa Kỳ đã theo đuổi một chương trình nghị sự phát triển kích thích tăng trưởng và phá vỡ sự phụ thuộc, và làm việc với các nhà lãnh đạo châu Phi để giúp họ nuôi quốc gia của họ. Những quan hệ đối tác mới đã được rèn luyện để chống tham nhũng và thúc đẩy chính phủ cởi mở và minh bạch, và những cam kết mới đã được thực hiện thông qua Quan hệ đối tác Tương lai Bình đẳng (Equal Futures Partnership) để đảm bảo rằng phụ nữ và trẻ em gái hoàn toàn có thể tham gia vào chính trị và theo đuổi các cơ hội. Và sau ngày hôm nay, tôi sẽ thảo luận về những nỗ lực của chúng tôi để chống lại hiểm họa của nạn buôn người.

Tất cả những điều này cho tôi hy vọng. Nhưng những gì mang lại cho tôi hy vọng lớn nhất không phải là những hành động của chúng tôi, không phải là hành động của các nhà lãnh đạo – đó là người dân mà tôi đã nhìn thấy. Quân đội Hoa Kỳ đã liều mạng sống của mình và hy sinh chân tay của họ cho người xa lạ ở nửa vòng trái đất, các sinh viên ở Jakarta hay Seoul, những người mong muốn sử dụng kiến ​​thức của mình để đem lại lợi ích cho nhân loại, những khuôn mặt ở quảng trường Prague hoặc quốc hội ở Ghana đang nhìn thấy dân chủ lên tiếng cho nguyện vọng của họ, những người trẻ tuổi trong khu ổ chuột của Rio và trong các trường của Mumbai với đôi mắt tỏa sáng đầy hứa hẹn. Những người đàn ông, phụ nữ, và trẻ em thuộc mọi chủng tộc và mọi tôn giáo nhắc nhở tôi rằng tất cả các đám đông giận dữ được chiếu trên truyền hình, có hàng tỉ người trên thế giới, những người chia sẻ hy vọng và ước mơ tương tự. Họ cho chúng tôi biết rằng có một nhịp đập con tim cung chung cho toàn nhân loại.

Trên thế giới, chúng ta có quá nhiều sự chú ý biến thành những cái phân rẽ chúng ta. Đó là những gì chúng ta thấy trên tin tức. Đó là những gì tiêu tốn các cuộc tranh luận chính trị của chúng ta. Nhưng khi bạn lột bỏ tất cả đi, thì thấy rằng mọi người ở khắp mọi nơi khao khát cho tự do quyết định vận mệnh của mình, nhân phẩm đi đôi với việc làm, tiện nghi đi đôi với đức tin và công lý chỉ tồn tại khi các chính phủ phục vụ cho dân của họ – và không phải là cách lòng vòng khác.

Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ sẽ luôn luôn ủng hộ cho những khát vọng này, cho riêng người dân của chúng tôi và cho tất cả mọi người trên toàn thế giới. Đó là mục đích sáng lập của chúng tôi. Đó là những gì lịch sử của chúng tôi đã chỉ. Đó là những gì Chris Stevens đã làm việc trong suốt cuộc đời của ông.

Và tôi hứa với bạn điều này: sau khi những kẻ giết người được đưa ra trước công lý, di sản của Chris Stevens sẽ sống lâu dài trong những con người mà ông đã tiếp xúc – trong hàng chục ngàn người tuần hành chống bạo lực xuyên qua các đường phố Benghazi, trong những người dân Libya khi thay đổi hình Facebook của họ bằng hình của Chris, trong những dấu hiệu được đọc đơn giản là “Chris Stevens là một người bạn của tất cả người dân Libya”.

Họ phải cho chúng ta hy vọng. Họ nhắc nhở chúng ta rằng miễn là chúng ta làm việc vì điều đó, công lý sẽ được thực hiện, lịch sử ở về phía chúng ta, và một làn sóng tự do sẽ không bao giờ bị đảo ngược.

Cám ơn rất nhiều. (Vỗ tay)
 
Tiền mừng đám cưới được tính là thu nhập chịu thuế cá nhân rồi.
Sắp tới cần cử cán bộ thuế đến các đám cưới ngồi kiểm đến phong bì luôn tại chỗ , rồi thu thuế luôn cho ngân sách nhà nước
 
Việc Moody's hạ điểm tín nhiệm gây lo ngại về hệ thống ngân hàng Việt Nam
Giao dịch tại một ngân hàng Việt Nam.
Giao dịch tại một ngân hàng Việt Nam.
Reuters
Thanh Phương

Vào lúc hàng loạt lãnh đạo ngân hàng, trong đó có cả cựu bộ trưởng Trần Xuân Giá, bị khởi tố về vụ bê bối tài chính ở ngân hàng ACB, việc cơ quan xếp hạng tín nhiệm Moody's hạ điểm của Việt Nam gây thêm lo ngại về hệ thống ngân hàng nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung.

Hôm qua, Moody's đã hạ điểm tín nhiệm của Việt Nam từ « B1 » xuống thành « B2 », tức là mức thấp nhất từ trước đến nay đối với Việt Nam, đồng thời hạ điểm tín nhiệm của 8 ngân hàng Việt Nam, trong đó có ngân hàng ACB đang bị điều tra về những bê bối tài chính.

Thật ra, theo các nhà phân tích, việc Moody's hạ điểm chưa có nghĩa là hệ thống ngân hàng Việt Nam đã lâm vào khủng hoảng toàn diện và nếu chính phủ Hà Nội có những hành động kiên quyết thì nền kinh tế sẽ được hồi phục.

Thế nhưng, việc hạ điểm tín nhiệm nói trên phản ánh mối quan ngại ngày càng lớn về tình trạng nợ xấu của ngân hàng Việt Nam và về nhịp độ cải tổ kinh tế của Việt Nam. Điều đáng nói là Việt Nam bị hạ điểm tín nhiệm vào lúc mà các nước láng giềng Đông Nam Á đang trên con đường hồi phục kinh tế. Chẳng hạn như tháng 12 năm ngoái, Indonesia đã được tăng bậc điểm về mặt đầu tư và Philippines sắp tới đây sẽ đạt được quy chế giúp cho họ vay tiền với lãi suất thấp và mở cửa đón nhận thêm đầu tư ngoại quốc.

Hãng tin Reuters cho biết, chính phủ Việt Nam đã phản đối việc Moody's hạ điểm, khẳng định rằng cơ quan này đáng giá không giống như các cơ quan xếp hạng tín nhiệm khác như Standard & Poor’s và Fitch. Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Đối ngoại Bộ Tài chính, ông Nguyễn Thành Đô, nói rằng việc hạ điểm như vậy sẽ khiến cho chi phí vay tiền của Việt Nam cao hơn. Ông kêu gọi Moody's xét lại quan điểm của cơ quan này, tức là phải nhìn thấy cả những mặt « tích cực » của kinh tế Việt Nam. Theo ông Nguyễn Thành Đô, mức tăng tín dụng bị hạn chế và tăng trưởng kinh tế chậm lại, đó chính là do Việt Nam đã nỗ lực kềm chế lạm phát.

Nhưng ngoài lý do chính phủ siết chặt tín dụng để kềm chế lạm phát, chính các ngân hàng Việt Nam, mà hiện có tỉ lệ nợ xấu rất cao cũng đã phải giảm bớt vốn cho vay, khiến các doanh nghiệp thêm khó khăn trong việc tìm tín dụng để mở rộng hoặc duy trì hoạt động.

Theo nhận định của ông Jonathan Pincus, nguyên là một kinh tế gia chuyên về Việt Nam của Liên Hiệp Quốc, tuy rằng ít có nguy cơ khủng hoảng ngân hàng, việc Moody's hạ điểm chủ yếu sẽ tác động lên tăng trưởng kinh tế. Ông Pincus cho rằng « Việt Nam không thể tiếp tục tăng trưởng mà không giải quyết các vấn đề của hệ thống ngân hàng. Chính phủ cần phải có hành động và hành động sớm tốt hơn là trễ ».

Theo đánh giá của Moody's, kế hoạch cải tổ ngân hàng mà chính phủ đề ra là tích cực nếu nó được thực thi đầy đủ, nhưng vấn đề là thiếu tính minh bạch và quá chậm chạp trong việc cải tổ.

Hãng tin Reuters trích lời ông Matt Hilderbrant, kinh tế gia tại ngân hàng JPMorgan ở Singapore dự báo rằng trong vòng 6 hoặc 9 tháng nữa, Việt Nam có nguy cơ bị hạ bậc thêm nữa, lý do là vì có quá nhiều nợ xấu ngân hàng và chắc chắn phải cần có sự hỗ trợ của chính phủ.

Chính phủ Việt Nam đang có kế hoạch tái cơ cấu các thị trường tài chính và củng cố các doanh nghiệp Nhà nước và đầu tư công, nhưng do những quan hệ lợi ích chồng chéo lên nhau, kế hoạch này sẽ khó mà được thực hiện.

Mấu chốt của vấn đề cuối cùng vẫn là, cũng giống như Trung Quốc, kinh tế Việt Nam phần lớn dựa trên các doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp này lại nằm dưới sự lãnh đạo của những quan chức yếu kém về năng lực quản lý, nhưng có quan hệ chặt chẽ với giới cầm quyền. Những vụ bắt giữ hay khởi tố các lãnh đạo doanh nghiệp Nhà nước hay lãnh đạo ngân hàng trong thời gian qua có vẻ như là hậu quả của các vụ thanh toán chính trị hơn là thể hiện quyết tâm làm trong sạch guồng máy kinh tế Việt Nam.
 
Thanh tra bắt đầu làm việc với Bầu Hiển



Trong quá trình thanh tra mối quan hệ giữa Chủ tịch Tập đoàn T&T Đỗ Quang Hiển với 2 đội bóng Hà Nội T&T và SHB Đà Nẵng, thanh tra Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch đã bắt đầu thu thập những khoản đầu tư trước đây của bầu Hiển ở 2 đội bóng này và xem xét sự tác động, chi phối của ông Hiển với 2 CLB.

http://tamvipvietnam.com/thanh-tra-bat- ... 57984.aspx
 
vừa rồi được nghe một vài vị cán bộ phàn nàn về dân nhiều quá, tức khắc ai cũng có cảm giác gờn gợn, nên chỉ dám dùng chữ “hình như”. Mà hình như là khó thật.
Có vị chê dân trí thấp nên phải nuôi mấy ngân hàng xấu, có vị khác thì bảo dân trí thấp nên mới... hổng chịu làm đường sắt cao tốc như ông nghị ở Hà Nam, lại có vị bảo dân phải hy sinh cho thủy điện. Thực tình dân cũng không biết phải làm gì ngoài đóng thuế để các vị quản lý và giải quyết các loại sự vụ xảy ra trong cái xã hội nhiều rắc rối rất nhức đầu này. Thậm chí dân Quảng Nam ngày đêm lo lắng tưởng như chết đến nơi, có vị tiến sĩ còn bảo, đại khái là, mới có động đất một tí mà đã nháo nhác hết cả lên.
Ngày xưa dân mình làm gì có thủy điện. Đến thời Pháp thuộc chúng ta mới có vài cái thủy điện nhỏ. Ngày trước vì không có thủy điện, nên chẳng có cái gọi là động đất kích thích, nứt đập sông đập suối này nọ. Đâm ra chẳng có cán bộ nào mắng dân là mới có thế đã dắt trâu bò, gói ghém đồ đạc bỏ chạy. Cũng vì thế mà chẳng có cán bộ nào bảo dân phải “chia sẻ và hy sinh” cho cái thủy điện không biết vỡ đập lúc nào. Dân Quảng Nam hồi đó, về cơ bản là không bị mắng, cũng không có thiệt hại gì vì một cái thủy điện.
Đầu năm, ông nghị Hoàng Hữu Phước phát biểu: “Chưa cần luật biểu tình, vì dân trí ta còn thấp”. Cuối năm, ông Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình lại cho rằng: “Do dân trí thấp, nên Nhà nước phải nuôi báo cô mấy ngân hàng xấu”. Ngày xưa dân mình cũng chẳng mấy khi đến ngân hàng. Mãi năm 1951 mới có Ngân hàng Nhà nước. Vậy nên không thấy có bằng chứng lịch sử nào ghi lại lời một quan chức ngân hàng chê dân trí thấp nên Nhà nước phải nuôi báo cô mấy ngân hàng làm ăn thua lỗ. Chưa hết, trên lĩnh vực văn hóa, trước tình trạng chân dài váy ngắn hở hang biểu diễn, ông cục trưởng quản lý biểu diễn lên TV tuyên bố "nói chung là dân trí chúng ta còn thấp..." đến nỗi một nhà văn hóa chịu hết thấu phải lên tiếng: Việc quản lý của ông ấy thấp nên mới để xảy ra tình trạng âm nhạc như thế. Nhờ sống chung với cái dân trí thấp nên nay ông cục trưởng đã... thăng chức thứ trưởng (!).
Ngày xưa, 95% dân số Việt Nam mù chữ. Cán bộ Việt Minh, đảng viên đi vận động từng người dân đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền. Không ai bảo dân trí thấp thì không làm được cách mạng. Tình trạng dân trí thấp được chính Chủ tịch Hồ Chí Minh khi đó giải thích là hậu quả của chính sách ngu dân thời kỳ thực dân - phong kiến, “chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học”, làm cùn mòn trí tuệ và nô dịch dân ta trong sự dốt nát.
Cách mạng thành công, chính quyền mới không ai chê dân dốt, mà thấy việc nâng cao dân trí là trách nhiệm của mình. Chính quyền cách mạng phát động phong trào diệt giặc dốt. Người người, nhà nhà tham dự các lớp “bình dân học vụ”, hoàn toàn miễn phí. Cán bộ dạy chữ cho dân, các ông bà giáo dạy chữ cho dân, động viên dân phải giết cái thằng giặc dốt đi thì cuộc sống mới khá được. Hồi đó dân trí thấp hơn bây giờ thật nhưng cán bộ không chê, nên làm dân vẫn dễ.
Thế rồi cán bộ được đi nước ngoài, được học hành đến nơi đến chốn, thậm chí trong khi dân ở nhà đang vắt kiệt nguồn lực để kháng chiến chống Mỹ thì họ được cử đi Liên Xô, Đông Âu học, nuôi dưỡng một thế hệ cán bộ cho công cuộc xây dựng đất nước sau chiến tranh. Thế nhưng thành tài rồi lại có người trong số họ quay ra trách dân thế nọ thế kia, cứ như ô tô các vị đang đi, tiền lương các vị đang nhận, cái nhà công vụ các vị đang ở, thậm chí cả cái mảnh bằng thạc sĩ, tiến sĩ của các vị, không phải từ mồ hôi nước mắt của dân mà ra.
Đâm ra làm dân càng ngày càng khó. Có khi khó quá thế này, dân nên... từ chức đi!
 
Back
Top