Ký sự organic

TiCan

Well-Known Member
Kỳ 1: Cây cỏ hết hồn nhiên

Anh cán bộ địa chính xã một vùng quê tỉnh Bình Thuận đưa tôi đi xem khu đất anh chuẩn bị trồng hành ngò ớt tỏi, để “cùng học hỏi kinh nghiệm”. Tôi hỏi đầu ra ở đâu, anh bảo để cung cấp cho bếp ăn các khu công nghiệp mà anh đang có mối. Dọc hai bên đường đến khu đất nhà anh là những vườn nhãn sum suê trĩu quả đang bước vào thu hoạch. Anh dừng xe trước một khu vườn, nói với chủ nhân: “Bác bán cho tôi mấy ký nhãn, chọn cây nào không xịt thuốc để tôi làm quà”. Chủ vườn cười, lắc đầu. Đến khu vườn thứ hai, chủ vườn bảo: “Không có đâu anh ơi, trồng nhãn thì cây nào chẳng phải xịt thuốc”. Đến khu vườn thứ ba, anh hạ thấp yêu cầu: “Bác chọn cây nào đã xịt thuốc lâu lâu rồi, bán tôi mấy ký”. Trả lời: “Mới xịt thuốc 1 tuần”. Anh quay sang nhìn tôi, ý muốn hỏi như thế có an toàn không, tôi bảo thôi đừng ăn nhãn. Tôi định hỏi cái khu hành ngò ớt tỏi của anh sau này có phải xịt thuốc gì không, nhưng khi anh tự nói đã phun thuốc diệt cỏ trước khi trồng rồi, tôi không hỏi nữa.

“Phát hiện” trên không có gì mới mẻ. Ai cũng biết trái cây trên thị trường hiện nay, dù của Trung Quốc hay của ta, đều có “xịt thuốc”, cấp thấp thì như mấy vườn nhãn tôi vừa nói, cấp cao thì dùng tiếp hóa chất độc hại làm tươi làm đẹp. Và ai cũng biết do khắp thế giới đều “xịt thuốc”, nên chúng ta vẫn có những loại rau quả xuất khẩu được kiểm định là an toàn với dư lượng hóa chất ở mức “cho phép”. Nhưng vấn đề là không phải ai cũng biết là nông thôn của chúng ta đã bị hóa chất công nghiệp tàn phá nghiêm trọng đến mức đáng sợ như thế nào.

Xã này nằm cách Khu bảo tồn thiên nhiên không bao xa. Nơi đây trước là vùng rừng nguyên sinh, tôi chắc là y như rừng của khu bảo tồn, dấu vết còn lại là nhiều gốc sến, gốc sao cổ thụ nằm trơ trên cát, không biết đã bị chặt phá từ lúc nào. Nằm trũng giữa xã có một cái bầu tương đối rộng, hiện vẫn còn nhiều cá tôm chim chóc hoang dã cư ngụ, thỉnh thoảng bắt gặp chồn cáo, gà rừng. Ven bầu vẫn còn cây nắp ấm. Sau giải phóng đây là vùng kinh tế mới, việc phá rừng khai hoang là đương nhiên. Nhưng nhiều người cho biết hơn 10 năm trước việc nuôi bò ở đây rất phổ biến, một cựu phó thủ tướng chính quyền Sài Gòn cũ, quê gốc ở xã này, sau giải phóng về dựng lại nhà thờ tổ tiên, cũng có trại bò hàng trăm con, chứng tỏ nơi đây từng có rất nhiều cỏ tự nhiên. Nay tuy còn một số hộ nuôi bò, nhưng mùa nắng bò gầy giơ xương, do chỉ ăn rơm vì làm gì còn cỏ.

caycohonhien5002.jpg;pvc91dea92eb400e89

Vùng này trước đây là rừng nguyên sinh

Cỏ dại không chỉ vô hại với cây trồng mà còn là thảm thực vật giữ độ ẩm và nuôi dưỡng hệ sinh vật làm màu mỡ bền lâu cho đất. Cha ông ta đã biết ăn ở đúng mực với cỏ. Cha ông ta “làm cỏ” là làm quang thoáng cho cây trồng, chỉ những cây trồng cùng một tầng ăn với cỏ, như lúa, mới cào cỏ rồi vùi xuống cho tốt đất. Thảm cỏ vẫn được duy trì hợp lý và luôn tái sinh tươi tốt, cho gia súc có cái để ăn, cho đất đai không bị xói mòn, cho không khí đồng quê trong lành tươi mát. Và nên nhớ phần lớn các loại cỏ dại đều là những vị thuốc, nhờ chúng mà con người cùng gia súc gia cầm kháng được bệnh, chúng chính là phước lành trên vườn ruộng. Cha ông ta không coi cỏ dại là kẻ thù mà là bè bạn. Nhưng đó là chuyện ngày xưa.

Còn ngày nay không hiểu chủ trương từ đâu và từ bao giờ mà tự nhiên ở nông thôn đã hình thành một phong trào “toàn dân diệt cỏ”. Ở đây người ta trồng thứ gì cũng phun thuốc diệt cỏ, trồng bắp diệt cỏ, trồng sắn diệt cỏ, trồng rau đậu diệt cỏ, trồng keo lá tràm diệt cỏ, thậm chí trồng cỏ voi cho bò ăn cũng phun thuốc diệt cỏ. Mùa mưa một số cỏ vẫn chòi đạp ngoi lên, nhưng mùa nắng thì hầu như không có, những thứ cỏ có thể sống được trong mùa nắng, như cỏ ống, đều bị diệt tận gốc, trừ một số nơi chưa canh tác nằm dưới vùng trũng. Thảm cỏ bị tận diệt, cả một vùng vốn là rừng nguyên sinh trở thành những dải cát cháy bỏng, dọc hai bên đường phủ đầy rác thải “hiện đại” là túi ni lông và hộp nhựa.

Bồi thêm với thuốc diệt cỏ là thuốc trừ sâu. Thuốc trừ sâu, thường được gọi với cái tên mỹ miều là thuốc bảo vệ thực vật, được phun khắp các loại cây trồng, từ cây điều cây sắn cho tới rau cải rau lang rau muống. Vườn nhà này phun thì vườn nhà khác muốn không phun cũng không được, nếu không phun sẽ hứng thêm sâu rầy bên phun dịch chuyển sang cư trú. Tình trạng này là phổ biến trong cả nước, và trầm trọng thêm, trở thành mặc định trong ngành trồng trọt với việc phổ cập các giống cây lai tạo, thậm chí các giống biến đổi gen, mà các nhà tạo giống cố ý “buộc” chúng phụ thuộc vào các loại thuốc bảo vệ thực vật. Hiện nay bắp (ngô) lai được trồng trên 80% diện tích trồng bắp cả nước, nếu tổ tiên chúng ta sống dậy sẽ thấy lạ lùng là phần lớn các thứ bắp này được “cài đặt” để thu hoạch không thể dùng làm giống, muốn trồng tiếp phải tiếp tục mua giống. Thứ bắp bị “thiến” đó bầy gà kiến (là giống gà ta cổ truyền) nhà tôi nhất định không thèm ăn.

caycohonhien5003.jpg;pv57f52306468a7229

Cây cỏ tự nhiên đang được khôi phục

Hóa chất đang làm méo mó và thu hẹp môi trường sống của các sinh vật bản địa. Các giống cây và rau quả truyền thống gắn chặt với đất Việt, vốn là những thức ăn tương thích với đặc điểm sinh học của người Việt ta, dần dần bị thu hẹp, một số gần như bị loại bỏ (như bắp). Và hiếm có nơi sáng dậy còn được nghe tiếng chim hót trong vườn, “chim chuyền bụi ớt líu lo” chỉ còn trong ca dao cổ tích.

Nỗi sợ hãi về rau quả nhiễm chất độc ngày càng gia tăng, buộc người ta phải tìm mọi cách tự vệ. Nhiều người chỉ ăn rau quả do tự mình trồng, một số người dân thành thị trồng rau vào các chậu đặt trên sân thượng. Ở chợ, có khi người ta tìm sâu bỏ vào rau đem bán để chứng minh rau không phun thuốc, khiến cho sự tự vệ của người tiêu dùng càng được siết chặt. Nhưng các cách tự vệ đều chỉ giữ cho bản thân mỗi gia đình được thoát hiểm trong hiện tại và chẳng thấm vào đâu so với tình trạng đại chúng vẫn phải ăn rau quả nhiễm độc.

Trong một môi trường mà các loại thuốc trừ sâu diệt cỏ được phun một cách dày đặc, tràn lan và hợp pháp, một môi trường mà cây cỏ tự nhiên khó mà tự mình sinh sống, liệu có nơi nào sản xuất được rau quả organic thương phẩm hoàn toàn không dùng hóa chất ?

http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140929/ky-su-organic-ky-1-cay-co-het-hon-nhien.aspx
 
Kỳ 2: Bài ca không dễ hát

Dân thành thị bây giờ đổ xô tìm mua thực phẩm hữu cơ (Organic foods), là thứ đối với rau quả thì không sử dụng phân hóa học, không phun thuốc trừ sâu, đối với thịt cá thì không sử dụng hóa chất trong thức ăn, không dùng thuốc kháng sinh, không dùng thuốc kích thích tăng trưởng. Trên thị trường đang quảng cáo các thực phẩm như vậy, giá mắc hơn thực phẩm thường. Nhiều người đã mua, đã ăn, nhưng chưa ai mục sở thị chúng được làm ra như thế nào, có thật như quảng cáo hay không.

Nông nghiệp hữu cơ (Organic farming), cao hơn nữa là nông nghiệp tự nhiên (Natural farming) trên thế giới có hai vị “sư tổ”, là ông Bhaskar Save, người Ấn Độ và ông Masanobu Fukuoka người Nhật. Bhaskar Save, một lão nông được tôn là vị thánh sống của ruộng vườn organic, còn Masanobu Fukuoka là vị giáo sư đạt đến cảnh giới vô vi trong nông nghiệp tự nhiên. Đọc những gì hai ông viết và những gì người ta viết về hai ông, tôi bỗng nhớ ông nội bà nội tôi, bởi vì những gì mà hai ông làm cũng na ná như những gì mà ông bà tôi đã làm ngày xưa. Tôi cũng nhớ làng tôi, cái làng trong lành đến mức thỉnh thoảng có anh chàng từ thị trấn về đây “cưa gái”, trên đường phì phèo điếu thuốc thơm là cả làng nghe mùi.

Thức ăn của tổ tiên ông bà chúng ta chính là organic foods, giờ đây thứ thức ăn đó đã tuyệt chủng, còn chăng chỉ có ở những nơi tít mù ngoài tầm hướng dẫn của các bề trên nông nghiệp. Những cái làng trong lành như làng tôi cũng đã tuyệt chủng.

Viết về thực phẩm hữu cơ, các nhà báo của chúng ta thường cao giọng đề cao hay phản biện, nhưng cũng chỉ nghe, đọc hoặc nhìn những thứ được bày bán mà chưa ai có cơ hội trải nghiệm. Cho nên những bài báo loại này không khác mấy những lời đồn. Để viết được những gì mà lão nông Bhaskar Save làm, một nhà khoa học Ấn Độ đã phải tình nguyện theo ông suốt 30 năm.

Ở Ấn Độ, cuộc cách mạng xanh có sức mạnh mãnh liệt xua đuổi đói nghèo trong ngắn hạn, song đã để lại những di hại khủng khiếp cho môi trường sống, nghĩa là tích tụ nghèo đói cho tương lai, nhưng cũng có một làn sóng ngược mãnh liệt không kém để hồi phục thiên nhiên mà lão nông Bhaskar Save là đại biểu. Đến nay Ấn Độ đã cấp chứng nhận 2,5 triệu ha đất trang trại đạt tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ. Còn nước ta thì sao ? Quá khứ thì tuyệt chủng, hiện tại chưa có gì, còn tương lai thì mù mịt. Một số trang trại, một số nhà vườn đang nỗ lực đi theo hướng này nhưng chưa ai tin, hớ một chút là bị các nhà báo không có chút thực tế nào lớn tiếng “phản biện”.

Từ lâu tôi đã nung nấu ý định về quê kiếm đất trồng cây nuôi heo nấu cơm cho vợ, như ngày xưa ông nội tôi đã làm. Cách đây hai năm, theo sự “xúi giục” của cựu Tổng Biên tập Báo Thanh Niên Nguyễn Công Khế, gia đình tôi đến xã này mua một mảnh đất với giá 1 ha, chưa bằng giá 1 mét vuông đất ở trung tâm Hà Nội, quyết trồng trọt chăn nuôi theo cách của ông bà chúng tôi, có học hỏi những lời dạy của các vị “sư tổ”. Thành bại chưa tính đến, mục đích là tạo một chỗ cho sau này gia đình được tự do “hát câu no lành”, cũng là để trải nghiệm xem có làm được organic hay không, nhằm phục vụ hữu ích cho nghề báo. Em trai tôi, một nông dân “cày đường nhựa” ở Củ Chi, có chút ít kinh nghiệm làm vườn từ thời ba tôi trồng dâu nuôi tằm ở Bảo Lộc, tình nguyện lên coi ngó. Vợ chồng tôi cũng làm trực tiếp trong thời gian có thể.

Điều may mắn là mảnh đất chúng tôi mua phần lớn vẫn còn hoang hóa chưa ai canh tác, nửa phía dưới sát bầu một phần còn đầm lầy mọc nhiều cỏ ống, rải rác vẫn còn một số cây của rừng nguyên sinh còn sót lại.

Việc đầu tiên là giữ nguyên những cây rừng, từ bụi mua, bụi dũ dẽ đến cây sến, duối, gáo, găng tu hú …, chỉ chặt bỏ những cây “ngoại lai” và dọn sạch mọi thứ rác rưởi vô cơ. Đương nhiên tất cả các loại cỏ đều giữ, riêng cỏ ống và cỏ tranh được ưu tiên bảo vệ. Chúng tôi khoanh lại một khoảnh 1/3 diện tích, đem cỏ ống phía dưới lên trồng kín, xen với sậy, rồi trồng rải trên đó tre, chuối, mít, khế, ổi, bưởi, chanh.., tất cả đều là cây “thuần Việt”, không trồng cây lai. Người chúng tôi thuê cuốc đất trồng cỏ ống thỉnh thoảng tủm tỉm cười, chắc nghĩ ông bà này điên.

Để “đa dạng hóa” các loại cây con “thuần Việt”, chúng tôi nhờ người thân tìm mua : gà kiến, heo cỏ, tre mỡ, trụ lông (một loại bưởi nổi tiếng ở làng Đại Bình), cau, chuối (chuối sứ hột, chuối cau, chuối thanh tiêu) và … phân bò từ Quảng Nam gửi vào. Chúng tôi mua giống ổi găng từ Hà Nội, bắp thì lấy những trái bắp giống cổ truyền bà con dân tộc treo giàn bếp ở Quảng Trị. Nhà báo Võ Như Lanh (cựu Tổng Biên tập thời báo Kinh tế Sài Gòn) có lần lên thăm đã thú vị cười ngất khi nghe tôi nói mang phân bò từ Quảng Nam vào, chẳng cần giải thích ông cũng hiểu tôi đem số phân bò đó không phải để bón cây mà … rải khống trên đất, cho những mầm cỏ dại từ quê tôi theo phân bò vào đây tự mọc.

Cái khoảnh đất khoanh riêng đó chúng tôi nuôi heo kết hợp với nuôi gà. Quanh chỗ ở làm giàn bầu bí, phía dưới trồng rau. Diện tích còn lại từ từ nghiên cứu làm các thứ khác. Chỗ lầy trũng đào thêm thành ao để “dụ” cá hoang dã từ bầu lên ở, thả thêm cá thác lác và cá rô đồng tự nhiên, mặc cho chúng tự sống tự sinh, hoàn toàn không cho ăn.

Thành công đầu tiên là một giàn bầu và giàn đậu rồng trĩu quả, không biết làm gì cho hết trái. Thử đem ra chợ, 10 kg bầu 100% organic bán được … 30 ngàn đồng. Nhìn giàn bầu mà chán ngán.

Một hôm, nhìn qua bên kia hàng rào nơi đang trồng sắn, thấy chị chủ vườn mang bình xịt phun thuốc. Tôi hỏi chị phun gì, bảo phun thuốc diệt rầy sáp. Mấy hôm sau, nhìn đám ổi, đám bưởi vườn nhà thấy rầy sáp dày đặc, kéo theo là đám kiến hôi bám đầy. Rầy sáp ăn hại mầm cây và tiết ra chất ngọt hấp dẫn kiến hôi, kiến hôi vừa ăn chất ngọt do rầy sáp tiết ra vừa rỉa rói nhựa cây, đồng thời mang rầy sáp đi phát tán. Theo chân rầy sáp, nấm bồ hóng phủ xuống làm lá cây thân cây đen kịt. Trên cây trồng cũng đầy các thứ sâu to sâu nhỏ. Nhìn sâu rầy thi nhau đua nở mà phát rầu. Nghe nói kiến vàng là thiên địch của sâu rầy, tôi tìm tổ kiến treo lên mấy cây bưởi, chắc bắp sẽ hữu hiệu. Ngặt nỗi gà nhà tôi là gà kiến, vốn hảo món kiến, nên chúng ăn hết kiến dưới gốc rồi nhảy lên tổ kiến ăn sạch cả kiến lẫn trứng. Ba lần bảy lượt treo ổ kiến đều thất bại. Thử treo ổ kiến chỗ không có gà, cũng không được, vì bị kiến hôi tiêu diệt. Kiến vàng treo nhiều lắm chỉ đôi ba tổ, còn kiến hôi dù nhỏ con hơn nhưng thiên la địa võng dưới đất, lực lượng bao giờ cũng áp đảo, kiến vàng làm sao mà chống nổi. Phải xịt thuốc ư ? Nếu vậy thì chúng tôi lên đây làm gì cho tốn sức. Đành mặc kệ nó.

Mới một khúc dạo đầu đã thấy bài ca Organic hoàn toàn không dễ hát. Được cái an ủi là chim chóc đã về, sáng chiều hót líu lo. Tre phát triển thành bụi, ong rừng bắt đầu về làm tổ…

Organic-anhtrongbai.jpg;pv53020eba8c0051dc


http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140929/ky-su-organic-ky-2-bai-ca-khong-de-hat.aspx
 
Kỳ 3: Mặc kệ nó

Chán nản với đám sâu rầy lúc nhúc trên cây cối mà không được phép tiêu diệt chúng, tôi nghiền ngẫm lại những gì mà ông Fukuoka đã làm. Người làm vườn có tầm nhìn xa nhất thế giới này là niềm cảm hứng vô biên đối với chúng tôi.

Nông nghiệp tự nhiên theo phương pháp của Fukuoka có yêu cầu cao hơn nhiều so với nông nghiệp hữu cơ. Yêu cầu cao nhất của canh tác hữu cơ là không sử dụng hóa chất trong chăm sóc và bảo vệ cây trồng, còn phương pháp của Fukuoka là tạo một môi trường tiệm cận với khuôn mẫu trong thiên nhiên để cây cối tự sinh trưởng, sự can thiệp của con người là tối thiểu. Fukuoa đúc kết thành 4 nguyên tắc:

Thứ nhất, không cày xới đất. Cày xới là việc của côn trùng, vi sinh vật và rễ cây rễ cỏ, chúng làm tốt hơn, hợp lý hơn con người. Nếu con người cày xới đất, sẽ làm lệch sự cân bằng tự nhiên, thúc đẩy cỏ dại và một số sinh vật phát triển quá mức.

Thứ hai, không sử dụng phân bón hóa học và hạn chế tối thiểu việc sử dụng phân hữu cơ. Trong tự nhiên, đất đai màu mỡ là do quá trình sinh trưởng và hủy diệt theo trật tự của các loài thực vật và động vật trong sự tương tác của thời tiết, không cần sự can thiệp của con người. Việc dùng thêm phân bón có thể làm cho cây trồng năng suất cao hơn nhưng do chi phí cũng cao hơn nên hiệu quả thấp, phân bón cũng không có tác dụng cải thiện sự màu mỡ của đất, ngược lại còn làm cho đất xấu đi. Việc sử dụng phân hữu cơ quá mức cũng hại nhiều hơn lợi, vì nó tạo điều kiện cho một số sinh vật phát triển mất cân đối làm phát sinh dịch bệnh.

Thứ ba, không diệt cỏ. Fukuoka cũng coi cỏ dại là bè bạn như quan niệm của tổ tiên chúng ta. Ông không những không phun thuốc diệt cỏ mà còn không diệt cỏ bằng các biện pháp khác. Khi cỏ không cùng một tầng ăn với cây trồng, chỉ cần không cho chúng mọc cao hơn cây trồng để tránh cạnh tranh quang hợp là đủ. Khi chúng cùng một tầng ăn với cây trồng thì hạn chế chúng bằng cách phủ rơm sau khi gieo hạt hoặc trồng một lớp cây khác phủ lên diện tích đất. Fukuoka thậm chí còn trồng cỏ ba lá hoặc cỏ linh lăng xen cùng lúc với gieo lúa, khi lúa nẩy mầm ông làm cho cỏ yếu đi bằng cách cho nước vào để biến chúng thành chất dinh dưỡng cho lúa.

kysu-nd.jpg;pv27252697493777df

Cỏ không phải kẻ thù mà là bè bạn

Thứ tư, không dùng thuốc trừ sâu. Khi môi trường canh tác tiến gần tới trạng thái của môi trường tự nhiên, nó sẽ tự tạo ra một hệ sinh vật cân bằng. Sự cân bằng sẽ ngăn chặn bất cứ loài nào phát triển quá mức hoặc giành ưu thế. Vì vậy sâu bọ côn trùng luôn luôn ở mức chấp nhận được, chúng tham gia vào quá trình ra hoa kết trái của cây cối và chọn lọc tự nhiên, chỉ làm hại những cây yếu nhất mà chúng ta cần loại bỏ. Thuốc trừ sâu cũng như thuốc diệt cỏ giết chết luôn hệ sinh vật, làm phá vỡ sự cân bằng tự nhiên, gây độc hại cho nguồn nước và không khí.

Thành công của phương pháp Fukuoka đã vượt khỏi biên giới nước Nhật, được cả thế giới quan tâm. Tuy chưa phổ cập do những yêu cầu ngặt nghèo khó thực hiện của nó, và do không đủ sức chống lại “di sản” của cách mạng xanh và làn sóng công nghiệp hóa gắn với lợi ích của các tập đoàn nông nghiệp xuyên quốc gia đầy tiền của và thế lực, nhưng nhiều trang trại ở Mỹ, châu Âu, châu Phi, châu Á, nhất là Ấn Độ đã áp dụng thành công. Những thửa ruộng, những khu vườn thuận với thiên nhiên mà con người tác động rất ít với chi phí thấp nhất nhưng năng suất cao, sản phẩm an toàn và hướng tới sự hoàn thiện của con người theo mô hình của ông là niềm cảm hứng cho các nước đang phát triển và cho giới trẻ.

Phương pháp Fukuoka còn gọi là “nông nghiệp vô tác”, “nông nghiệp vô vi”, nghĩa là canh tác mà không cần làm gì cả. Bốn nguyên tắc của ông cũng là 4 nguyên tắc “không làm”.


chuoi-nd.jpg;pv24fd038a2b40ca50

Chuối, mít mọc xen trong cây rừng

Tưởng là ngon ăn, nhưng làm mới biết không hề dễ. Vị sư tổ của nông nghiệp tự nhiên khi khởi sự cũng khó hát được bài ca của chính ông. Ông từng nhìn vườn cam vườn quýt bạt ngàn của gia đình thi nhau tàn lụi khi bắt đầu áp dụng triết lý “vô tác”. Ông hằng ngày quan sát sâu bọ tàn phá khu vườn và “mặc kệ nó”. Kết luận ông rút ra là: không có mảnh đất nào được coi là tự nhiên, khi con người đã trồng cây lên đó. Nhật Bản thời đó đã là dấn sâu vào con đường thâm canh, sử dụng phân hóa học và thuốc trừ sâu. Đất đai khi đã canh tác theo cách đó là trái với tự nhiên rồi. Đã trái với tự nhiên thì phải chăm bón, cắt tỉa, diệt trừ sâu bọ thì chúng mới phát triển.

Do đó, để “không làm gì hết”, đòi hỏi trước hết phải tạo ra một môi trường canh tác gần với tự nhiên nhất. Điều này thách thức mọi sự kiên trì.

Và Fukuoka đã làm gì? Ông đem hạt giống các loại cây và rau quả trồng một cách ngẫu nhiên hỗn độn rồi… đứng ngó. Một loạt chết đi, một số sống sót. Ông mặc kệ nó. Việc thử nghiệm cứ thế lặp đi lặp lại, cây nào chết ông cho chết, cây nào sống thì thi nhau tươi tốt, cho đến khi một môi trường gần với tự nhiên được tái lập. Ông phát hiện sự xuất hiện của nhện trong vườn như là chỉ báo của sự bền vững.

Vấn đề là gần với tự nhiên nào? Những cây ổi sẻ rừng chúng tôi đem trên núi xuống trồng, ban đầu sống, ra hoa nhưng không kết trái, cuối cùng thì tàn héo và chết hẳn. Còn ổi găng chúng tôi đem từ Hà Nội về trồng thì tươi tốt, 6 tháng đã trĩu trái. Chuối sứ hột đem từ chỗ chị tôi ở Đồng Nai về trồng thì lớn vụt, còn chuối đem từ Quảng Nam về trồng 1 năm chỉ lên tới ngực, đến năm thứ hai mới chịu đâm chồi.

Vạt bắp nếp đầu tiên xanh mướt, thu hoạch tất cả dành làm giống, nhưng vụ sau chỉ lên lèo tèo. Đám đậu phụng lên rất sướng mắt nhưng quả dưới đất bị chuột ăn sạch sành sanh không thu hoạch được hạt nào. Khoảnh nếp nương gieo thử theo cách của Fukuoka, chưa kịp trổ đòng chuột đã cắn ngang cuối cùng chỉ còn lại cỏ…

Chẳng thể rút ra được quy luật nào cả. Nhưng mặc kệ nó, thiên nhiên khôn hơn chúng ta.

Nhưng chúng tôi nghĩ chúng tôi đang thành công, dù thu nhập trong hai năm chỉ được 30 ngàn đồng tiền bán bầu. Đến năm thứ hai sâu rầy trong vườn tôi tự nhiên giảm hẳn, đây đó nhện cũng đã giăng. Bưởi cây nào chết đã chết, cây còn sống nẩy mầm đâm lộc. Ổi găng vườn tôi thơm ngon hơn ổi găng tại chính quê hương của nó, chắc vì không bón phân hóa học và phun thuốc trừ sâu.

Giờ thì vườn chúng tôi có đủ cỏ, đủ chuối, đủ cây lá, đủ rong rêu cho heo, cho dê, cho bò, cho gà vịt, cho đàn chó Phú Quốc rong chơi…

http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140929/ky-su-organic-ky-3-mac-ke-no.aspx
 
Last edited by a moderator:
Kỳ 4: Lớp học heo gà

Cả cái thôn này không ai tin chúng tôi nuôi heo cho ăn toàn cỏ dại. Có người hỏi heo gì mà ăn cỏ, tôi bảo heo cỏ mà không ăn cỏ thì ăn gì. Có người tò mò đến xem, thấy chúng ăn cỏ ống rào rào mới thấy “choáng”.

Đúng ra không ai cho chúng ăn mà chúng tự kiếm ăn trong vườn, thích cỏ gì ăn cỏ nấy, người nuôi chỉ cho chúng ăn dặm cám gạo, chuối cây và rau lang. Cỏ, chuối cây và rau lang trong vườn chúng tôi dĩ nhiên là không bón phân hóa học và phun thuốc trừ sâu. Đàn heo bây giờ hoàn toàn không bệnh tật, chúng lót ổ sinh sản và tự nuôi con, chẳng cần người chăm sóc.

Đó là nuôi heo theo cách của cha ông ta, nghe thì dễ dàng nhưng tôi suýt nữa thì bỏ cuộc.


haoco02-ATB.jpg

Heo gà làm vệ sĩ cho nhau

Sau khi trồng đủ chuối, đủ rau lang và dưỡng cho cỏ lên xanh tương đối, tôi chia phần đất dành cho heo gà ra làm ba khu, mua lưới B40 ngăn lại, mục đích là thả heo ăn hết cỏ khu này thì chuyển sang khu khác, ăn hết khu thứ ba thì khu thứ nhất cỏ đã phục hồi, cứ thế mà luôn phiên, lúc nào heo cũng có cỏ ăn.

Heo cỏ là heo như thế nào? Hơn bốn ngàn năm trước dân tộc ta lập quốc trên mảnh đất này. Khi những cư dân đầu tiên chuyển từ săn bắt hái lượm sang khai phá các đầm lầy để trồng lúa nước, cùng với con c hó, heo là con vật đầu tiên được dẫn đi theo. Sở dĩ vậy là do con heo có nhiều khả năng vượt trội hữu dụng cho con người, trong đó có khả năng qua đầm lầy biết đi vào những chỗ không sụt lún, con người cứ theo chân heo mà đi, cầm chắc an toàn. Heo còn là khắc tinh của các loài rắn độc và chồn cáo, chỗ nào có heo thì rắn độc không dám bén mảng lại gần. Vì vậy, heo từng là “hướng đạo”, từng là “vệ sĩ” cho tổ tiên ta khi mở cõi. Ngày nay những giống heo cổ truyền đó vẫn còn, đó là heo cỏ, điển hình nhất là heo Móng Cái, các tỉnh phía nam thường gọi là heo mọi. Heo cỏ “nguyên bản” ngày nay vẫn giữ những đặc tính khi xưa. Báo chí từng viết về con heo “ăn chay và biết giữ nhà” của ông Nguyễn Văn Mạo ở tỉnh Đồng Tháp, coi đó là chuyện lạ. Heo của ông Mạo chính là heo cỏ. Con heo cỏ nào nếu được huấn luyện cũng có thể trở thành con heo như vậy, không có gì là lạ cả. Thịt heo cỏ thơm, hoàn toàn tương thích với đặc điểm sinh học của cơ thể người Việt ta, người khỏe mạnh ăn vào bổ dưỡng, người đau ốm ăn vào ngừa trị bệnh. Toàn thân con heo bộ phận nào cũng là một vị thuốc, kể cả phân, nên có thể gọi heo cỏ là “con thuốc”.

Gian nan nhất là gầy cho được một bộ giống thích nghi được với mảnh đất và cách nuôi này. Đầu tiên tôi mang 2 con heo từ miền núi Quảng Nam về, một đực một cái. Heo tôi nuôi chung với gà, theo kinh nghiệm người xưa thì hai thứ đó không thể tách rời nhau. Ai cũng biết gà là miếng mồi ngon cho rắn và chồn cáo, còn heo thì như đã nói, là khắc tinh của những con này. Ngược lại, heo mà bị bò cạp hoặc rết cắn là chết chắc, trong khi bò cạp hoặc rết mà gặp gà thì mười con bị ăn hết cả mười. Vì vậy heo gà ông bà ta nuôi chung để làm “vệ sĩ” cho nhau.

Nhưng điều bất ổn đã xảy ra. Bầy gà con theo mẹ vào ăn gần chỗ máng heo ngày một vơi dần, hôm mất hai con, hôm mất ba con, không mất ban đêm mà mất ban ngày, nên không thể nói do chuột. Có hôm thấy diều hâu sà xuống gắp, tôi làm ông bù nhìn đội nón phất phơ trước gió để dọa, diều hâu không đến nữa. Không còn diều hâu nhưng gà vẫn mất và mất nhiều hơn. Một hôm bắt quả tang hai em heo miệng đang nhai gà. Hỏi ra mới biết hai em heo này là heo lai, mẹ Móng Cái còn cha là giống gì đó của Thái Lan. Chỉ có heo cỏ thuần mới là thân hữu của gà, còn heo lai thì không, dù là lai rừng hay lai Thái lai Mỹ.

Cả cái tỉnh Bình Thuận này không tìm đâu ra giống heo cỏ. Tìm mãi mới được một con, của một chị nuôi trong nhà để chơi với cháu nhỏ, nay cháu lên thành phố học nên chị bán. Đó là em heo cái đến tuổi lên giống. Tôi mua về nuôi nhưng suốt mấy tháng không thể tìm đâu ra chú heo đực để gả chồng. Nghe nói chợ Bình Châu thỉnh thoảng vẫn có người mang heo cỏ con từ vùng núi xuống bán, “phục” hoài mới mua được một đàn 8 con, 3 đực 5 cái, yên chí là sẽ gầy được giống.

haoco01-atb.jpg

Heo ăn cỏ ống rào rào

Dù được chăm sóc rất cẩn thận, thực hiện mọi điều kiêng cữ, nhưng được vài hôm toàn bầy bắt đầu tiêu chảy. Tìm mọi thứ cây lá cho ăn “theo kinh nghiệm dân gian”, cũng không ăn thua, một số hết tiêu chảy nhưng vài ngày lại tái diễn, thân gầy teo tóp. Gặp ai tôi cũng hỏi và ai cũng bảo gọi thú y, gọi điện hỏi chị tôi cũng được trả lời: “Gọi thú y vào chích mấy mũi là hết liền”. Tôi bực mình nói: “Ngày xưa bà nội mình nuôi heo đâu có chích thuốc mà có bao giờ thấy bệnh tật gì đâu”, chị tôi cười: “Ngày xưa khác, bây giờ khác, bây giờ ai nuôi heo cũng phải chích thuốc”. Nếu phải chích thuốc thì việc gì tôi phải nhọc công nuôi heo. Tôi dứt khoát không chích thuốc, cho uống thuốc cũng không, dù là thuốc đông y. Và bầy heo lăn ra chết, cố hết sức giữ cho được 1 con heo đực nhưng cuối cùng nó chết luôn. Có thể ở đây lạ nước và môi trường chưa dung nạp với heo nuôi tự nhiên, hoặc giả bố mẹ của đàn heo này người ta đã từng chích thuốc khiến cho con của chúng sinh ra cũng phải chích thuốc, có phải vậy hay không tôi không thể biết. Nhưng “mặc kệ nó” thì không được, “mặc kệ nó” là chấm dứt nuôi heo.

Chúng tôi lại lên vùng núi “phục” và mua được một đàn 4 con, chỉ 1 con heo đực, với hy vọng gầy giống rất mong manh. Lần này thì “mặc kệ nó”, tôi thả tự do trong vườn, chỉ để sẵn một ít cám gạo trộn nước, chúng tự do muốn ăn gì thì ăn. Lại bị tiêu chảy. Hôm sau chết 1 con, may là không chết con heo đực. Tôi cũng mặc kệ, không dùng cây lá để chữa, con nào chết cho chết, chết hết tôi sẽ không nuôi heo nữa. Cuối cùng thì không có con nào chết nữa, 3 con heo con tự nhiên hết tiêu chảy, trở nên khỏe mạnh, lớn nhanh. Tôi theo dõi trong vườn, thấy chúng không ăn nhất định một loại cỏ nào, khi thì ăn cỏ này, khi thì ăn lá khác, khi thì vít lá chuối xuống ăn, khi thì nhai luôn cây chuối con, khi thì nhai đất đá. Đó là chúng tự cân bằng thể trạng, tự cây lá chữa bệnh cho mình, chúng ta không thể biết lúc nào chúng ăn cây cỏ gì là thích hợp. Chúng ta không thể khôn hơn con heo, cái khôn của chúng ta là giữ cho được một vườn cỏ tự nhiên phong phú. Mọi thứ tri thức về thiên nhiên đều bất cập, chúng ta chỉ có thể “thuận với thiên nhiên” mà thôi.

Giờ thì 3 con heo cái mới và con heo cái đầu tiên đang chuẩn bị đẻ lứa thứ ba. Chúng tôi đã gầy được một bộ giống heo cỏ hoàn toàn không bệnh tật từ lứa thứ nhất và lứa thứ nhì. Khu vực khoanh lại trước đây đã được mở rộng đến sát dưới bầu. Từng đàn gà kiến đi theo, heo ủi tới đâu gà có mặt tới đó để “ăn ké” giun dế…


http://www.thanhnien.com.vn/pages/20141001/ky-su-organic-ky-4-lop-hoc-heo-ga.aspx
 
Last edited by a moderator:
Kỳ 5: Rằng hay thì thật là hay…


nuoiheod.jpg

Nuôi heo tự nhiên chi phí rất thấp

Ông Ngô Hoàng Minh, người sống bằng nghề nuôi heo ở gần vườn nhà tôi, thỉnh thoảng sang làm giúp tôi một số việc, như cho heo ăn dặm hoặc coi ngó heo đẻ. Trước đây ông vẫn có đồng ra đồng vào từ nuôi heo, còn bây giờ nuôi heo thịt không ăn thua nên ông chuyển sang nuôi heo nái, chủ yếu lấy công làm lãi, phải đi làm thuê mới có thêm tiền cho gia đình đủ sống. Heo ông nuôi bự con, dài đòn, là giống heo lai công nghiệp đang được nuôi phổ biến trong cả nước. Chuồng trại ông xây bằng xi-măng, máng ăn tự động “hễ chạm mỏ vào là thức ăn rớt xuống, ăn bao nhiêu tùy thích”, nước uống cũng tự động.

Tôi hỏi ông Minh heo ông ăn những gì, ông bảo ông mua “thức ăn” trong bao về cho ăn, “thức ăn” mà ông nói là cám công nghiệp mà các công ty thức ăn chăn nuôi bán. Hỏi cho chúng ăn rau cỏ hay chuối có được không, ông lắc đầu, nói cỏ hay chuối chúng không ăn, còn rau lang thì ăn nhưng không lớn, phải ăn “thức ăn” chúng mới chịu lớn. Heo ông nhốt trong chuồng, suốt ngày nằm rồi đứng dậy ăn. Tôi hỏi nếu mở cửa chuồng cho ra thì chúng có ra không, ông cười bảo không, chúng chẳng có nhu cầu gì ở ngoài chuồng cả.

“Thức ăn trong bao” hiện nay giá khoảng 12.000 đồng/kg. Nếu nuôi heo thịt, mua 1 con heo con cai sữa khoảng 1 triệu, nuôi 3 tháng được trên dưới 60 kg, với giá heo hơi hiện nay khoảng 50.000 đồng/kg, con heo 60 kg bán tầm 3 triệu. Mỗi con heo, nhỏ thì ngày ăn 1,5 kg thức ăn, lớn ăn 2,5 kg, bình quân khoảng 2 kg, 90 ngày ăn hết 180 kg, nhân với 12.000 đồng/kg, vị chi là 2.160.000 đồng tiền thức ăn, cộng với 1 triệu tiền heo giống, giá thành tính riêng hai khoản này mỗi con đã là 3.160.000 đồng. Với giá bán 3 triệu, mỗi con lỗ 160.000 đồng, chưa tính lỗ công nuôi, tiền thú y, tiền chuồng trại và tỷ lệ chết chóc. Nuôi nhiều tháng hơn, heo sẽ lớn hơn, thức ăn sẽ tăng lên, số lỗ sẽ nhiều hơn. Tuy nhiên, nhiều hộ nuôi heo vẫn có lời chút ít, bằng cách mua cám công nghiệp “nguyên chất” về trộn thêm các loại cám bắp cám sắn giá rẻ để “hạ giá thành”. Gọi là lời nhưng cũng ở mức lấy công làm lãi, nếu tính đủ “đầu vào” thì vẫn lỗ.

Còn nuôi heo theo cách của tôi thì sao? Ban đầu thì rất tốn kém, nhưng khi đã tạo được một vườn cỏ tự nhiên và một bộ giống không bệnh tật rồi thì sự tốn kém không còn đáng kể nữa. Khi vườn chưa nhiều cỏ, tôi cho ăn dặm ngày 2 lần, rau và chuối thì có sẵn không phải mua, chỉ tốn khoảng 3.000 đồng tiền cám gạo 1 ngày cho mỗi con. Hiện nay khi cỏ đã nhiều, chỉ cho ăn dặm mỗi ngày 1 lần, chi phí cám gạo không quá 2.000 đồng. Cùng một thời gian nuôi, con heo tôi chỉ đạt trọng lượng bằng 1/3 heo ông Minh, nhưng chi phí thức ăn ít hơn 12 lần. Tôi chưa có ý định nuôi heo để bán, nhưng nếu bán theo giá thịt heo Organic thì chắc chắn phải cao hơn nhiều so với giá thịt heo công nghiệp. Chỉ vài con số như vậy đủ thấy hiệu quả kinh tế như thế nào.

Không ít các chuyên gia nông nghiệp và kinh tế bảo rằng, các giống heo truyền thống lớn chậm, năng suất thấp, không đáp ứng đủ nhu cầu thịt của dân chúng, còn heo công nghiệp lớn nhanh, năng suất cao, từ đó khuyến khích nuôi heo công nghiệp để “tăng nguồn thực phẩm cho xã hội”. Với lập luận tương tự như vậy, các giống lúa cổ truyền của dân tộc đã bị loại bỏ không thương tiếc, nhường chỗ cho các giống lúa lai gắn chặt với phân hóa học và thuốc trừ sâu. Các vị chuyên gia đó dĩ nhiên là văn hay chữ tốt, nhưng lại không chịu hiểu một xã hội thị trường thì phải khác một xã hội bao cấp hay một bộ lạc tự cấp tự túc.

Một người làm ra thứ gì đó để đem đi bán, điều anh ta quan tâm không phải là làm ra bao nhiêu mà là lời bao nhiêu. Lời nhiều thì làm nhiều, lời ít làm ít, không lời không làm. Vấn đề là hiệu quả chứ không phải là sản lượng hay năng suất. Nuôi con heo 30 kg mà lời 20 kg (tôi cho là tối thiểu theo cách nuôi của tôi) tất nhiên phải hơn nuôi con heo 100 kg mà chỉ lời 1 kg, thậm chí không lời kg nào, ấy là chưa kể một bên là thực phẩm sạch tự nhiên, một bên là thực phẩm nhiễm hóa chất.

Nhưng lời nhiều vì sao nông dân chúng ta không làm? Xin thưa là không thể làm được, nếu không có đủ kiên trì. Bởi vì lịch sử đã để lại cho chúng ta quá nhiều di chứng trên vườn ruộng, do chiến tranh, do chính sách nông nghiệp, do “mặt trái” của công nghiệp hóa, do những tri thức nông nghiệp được dạy dỗ trong các trường đại học cũng như được phổ cập trong dân chúng không những không kế thừa mà còn bài bác tri thức của cha ông ta tích lũy hàng ngàn năm trên mảnh đất này. Và như chúng tôi đã đề cập trong kỳ trước, việc tái lập một môi trường tiệm cận với thiên nhiên, tức là tái lập những thửa ruộng mảnh vườn như thửa ruộng mảnh vườn của cha ông ta ngày trước, không hề là chuyện dễ. Người nông dân thì cần cái ăn trước mắt, cần có tiền ngay để lo cho con cái học hành.


haoco01-atb.jpg

Heo ăn cỏ ống rào rào

Còn một điều nguy hiểm nữa, điều mà nhiều người thấy nhưng cũng nhiều người làm ngơ coi như không thấy. Đó là thực trạng các tập đoàn nước ngoài khống chế ngành chăn nuôi nước ta bằng cách phổ cập các giống heo chỉ ăn thức ăn do các công ty thức ăn chăn nuôi sản xuất, liên tục nâng giá đầu vào và khống chế giá đầu ra nhằm bần cùng hóa các hộ chăn nuôi nhỏ, xóa bỏ các con giống truyền thống, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn ngành chăn nuôi nội địa. Báo chí đã lên tiếng, nhiều khi gay gắt, nhưng những tiếng kêu dường như đều rơi vào đôi tai điếc của các bề trên nông nghiệp.

Thêm vào đó, không phải ngẫu nhiên mà các thứ dịch heo dịch gà ngày càng được công bố với tần suất dày đặc cùng các chiến dịch tiêu hủy heo gà liên tục được tiến hành. Sự thật như thế nào, nó có bị thổi phồng quá mức hay không, nó có phải là sản phẩm của mối liên kết giữa các tập đoàn chăn nuôi - y dược quốc tế hay không, không thể dùng “mắt thường” để thấy, chỉ thấy rõ là qua mỗi đợt như thế, việc tiêu hủy thường hướng vào heo gà của bà con nông dân nghèo của chúng ta. Hẳn nhiều người còn nhớ, chỉ mới đây thôi, nuôi một con sáo, một con họa mi treo trong vườn có khi cũng bị “cơ quan chức năng” đến vặn cổ, dù nó chẳng hề có bệnh tật gì. Điều đáng sợ là những cuộc truy sát đó đều được sự đồng thuận của đa số các phương tiện truyền thông và của đám đông vốn sợ hãi bệnh tật. Ai dám chắc đàn heo đàn gà Organic của mình sẽ không chịu số phận của những con sáo, con họa mi vô tội kia ?


http://www.thanhnien.com.vn/pages/20141002/ky-su-organic-ky-5-rang-hay-thi-that-la-hay.aspx
 
Kỳ 6 : Những con c hó dạy ta điều gì ?

nuoicho.jpg


Hai con c hó Phú Quốc đầu tiên của chúng tôi sống ở thành phố. Ban đầu tôi tắm cho chúng 2 ngày 1 lần, bằng xà phòng xịn dành riêng cho chó hẳn hoi, nhưng chúng hôi òm, sờ vào chúng mà không rửa tay thì cả ngày chưa hết hôi. Có lúc bận, 1 tuần tôi mới tắm cho chúng, điều lạ là mùi hôi giảm hẳn. Sau đó 15 ngày tôi mới tắm chúng 1 lần, chỉ còn hôi sơ sơ. Khi đưa chúng lên cái vườn này, tôi không tắm chúng nữa, chúng tha hồ chạy nhảy bơi lội, mùi hôi hết hẳn. Tôi không biết chó tây như thế nào, vì tôi chưa nuôi, nhưng đối với chó ta có thể thấy càng tắm càng hôi.

Có người nói chó là con vật không có tuyến mồ hôi, da của nó phủ một lớp màng nhầy rất mỏng bảo vệ, nên chó không thích tắm, khi tắm bằng xà phòng lớp bảo vệ này bị tổn thương, nên cơ thể chó tự tiết ra một chất đề kháng, chính chất đó gây hôi. Nghe rất có lý, nhưng con trâu cũng không có tuyến mồ hôi, mà trâu thì lại thích dầm mình trong nước, trời nắng nóng mà không dầm trong nước trâu sẽ l ồng lộn đi tìm vũng bùn, bởi thế mà trâu chỉ cày được ruộng nước, chỉ bò mới cày ruộng khô. Xin lưu ý thêm, nhiều người bảo chó Phú Quốc thích bơi lội, theo tôi thấy thì không hẳn đúng, vì có con thích có con không, thực ra chúng xuống nước để bơi không phải thích, mà để đuổi bắt con gì đó như cá hay ếch nhái, chúng bơi giỏi là do sống trên đảo thường phải săn mồi dưới nước. Con c hó làm gì cũng có mục đích, ít khi thích khơi khơi theo thời thượng như con người.

Dù vậy thỉnh thoảng tôi phải tắm cho chó, đó là lúc chúng lăn vào phân bò hoặc phân heo, nhưng không tắm bằng xà phòng. Những con c hó của tôi lâu lâu lại lăn vào phân gia súc, khi lăn chúng tỏ ra thích thú như con gà tắm cát, tôi chịu không biết chúng lăn vào phân để làm gì, cũng chưa thấy sách vở tài liệu nào giải thích. Tất nhiên con c hó có cái lý của nó, nó không nói ra được, nên chúng ta cần tìm hiểu để “học hỏi”. Tìm hiểu thì thấy ở Ấn Độ người ta dùng nước tiểu và phân bò để chữa bệnh, nước tiểu bò thì chữa từ bệnh cao huyết áp, đau dạ dày đến ung thư, còn phân bò thì làm lành vết thương. Dân gian ta cũng thường đem phân bò bôi vào vết thương của chính con bò. Còn phân heo thì, theo các sách thuốc cổ về Đông y, là vị thuốc có tác dụng chống độc và khử uế môi trường, ngày xưa dân gian thường lấy phân heo phơi khô treo giàn bếp, khi ngộ độc nấm đốt lên hòa nước uống là khỏi. Phân heo nói ở đây là heo nuôi tự nhiên, còn phân heo nuôi công nghiệp thì rất ô uế. Phải chăng những con c hó đã sớm biết phân heo phân bò là thuốc, chúng lăn vào người để khử độc cơ thể và bảo vệ da ? Chưa biết chắc được, nhưng rất có thể là như vậy.

Điều tôi “học hỏi” nhiều nhất ở những con c hó là khả năng tự chữa bệnh của chúng. Tôi vẫn biết khả năng tự chữa bệnh của chó, nhưng do không tuân thủ những “nguyên tắc” ăn uống của chó mẹ nên lứa đẻ đầu tiên được 4 con, chỉ sống có 1, khi chưa biết ăn. Sau này tôi phát hiện do em trai tôi đã sơ ý cho chó mẹ ăn thức ăn nhiều hành tiêu ớt tỏi của người, chó mẹ ăn vào thì bản thân không sao, nhưng cho con bú thì “dư lượng” của những thứ gia vị đó làm hỏng hệ thống tiêu hóa khiến chó con tiêu chảy mà chết. Đến lứa thứ hai, sinh được 5 con, rút kinh nghiệm giữ không để chó mẹ ăn gia vị nên chó con rất khỏe mạnh, đặt tên Mít, Bưởi, Đậu, Ổi, Na (thằng sống sót lứa đầu tên Chuối, bố mẹ nó trước sống ở thành thị nên có tên hơi “tây” là Bim và Tu-ti).

Được 3 tháng tuổi, không biết chúng ăn nhằm thứ gì mà lần lượt đi tiêu chảy, lần lượt bỏ ăn, nhưng không nằm trong nhà mà khi thì đi lang thang nhấm nháp cây cỏ trong vườn, khi thì nằm trong bụi cỏ, tối mới về ngủ. Một đứa là thằng Mít đi luôn không về, tối mang đèn pin đi rọi khắp vườn không thấy. Hôm sau mới tìm thấy nó nằm dưới mé ao sát dưới bầu. Bế nó về, đút cháo thịt cho ăn kèm với thuốc đông y trị tiêu chảy, tối nó lại ra đúng chỗ đó, lại bế về, được một hôm thì nó chết. Hai đứa tiếp theo tình trạng diễn ra y như vậy, cũng chết. Còn hai đứa là thằng Ổi và con Na, cũng đi tối không về, nhưng lần này tôi mặc kệ, chỉ tìm xem chúng nằm chỗ nào để theo dõi thôi, thấy chúng nằm dưới mé ao, tôi không bế về nữa, cũng chấm dứt không ép thuốc men cơm cháo. Thằng Ổi chỉ không về một đêm, hôm sau về ăn và khỏe luôn. Nhưng con Na đến 4 giờ sáng ngày thứ 3 mới mò về, rất yếu ớt, buổi chiều nó liếm được cháo, ngày tiếp theo bắt đầu ăn, rồi khỏe hẳn.

Con c hó bản tính khiêm tốn và không biết nói, không sân si như con người. Nếu nó biết nói và không khiêm tốn, nó sẽ bảo nó coi khinh cái cách chữa bệnh và các thứ thuốc men của tôi. Lẽ ra nó đang tự chữa bệnh, quá trình tự chữa bệnh của nó chưa hoàn thành, tôi lại chặn ngang quá trình đó khiến cho nó phải chết oan.

Bệnh tật là gì ? Theo nguyên lý của nền y học dân tộc ta, bệnh tật là do ăn một thứ gì đó trái với tự nhiên, là do sự tác động bất thường nào đó từ môi trường đến cơ thể khiến cho cơ thể phản ứng tự vệ bằng tiêu chảy, bằng nóng sốt, bằng nổi u nổi sần… Muốn phòng trị bệnh một cách căn bản, phải sống thuận với tự nhiên, nếu nặng thì đồng thời tìm cách khắc phục những nguyên nhân gây ra bệnh và tìm những thứ sẵn có trong thiên nhiên để bù trừ vào những chỗ bị tổn hại bị méo lệch của cơ thể. Những con vật sống trong thiên nhiên tự có khả năng đó, còn con người thì phải học mới biết và phải biết cách học. Cha ông ta đã theo chân những con c hó, những con heo và các loài động vật khác để tìm ra cây lá chữa bệnh, gọi là thuốc. Nhưng cha ông ta chữa bệnh không phải chỉ bằng thuốc, mà còn bằng những nguyên tắc sống thuận với âm dương ngũ hành, đều là những tri thức học từ con c hó con heo, từ cây cỏ, từ sự vận hành của đất cát, của nắng mưa mà ra cả. Những kết quả thí nghiệm trong phòng, làm sao có thể thâu tóm hết sự bao la của núi sông trời biển ?

http://www.thanhnien.com.vn/pages/20141004/ky-su-organic-ky-6-nhung-con-cho-day-ta-dieu-gi.aspx
 
Kỳ 7: Nỗi ám ảnh GMO và chất độc da cam

Ngày 3.6.2013, báo điện tử của Chính phủ Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam đồng loạt đưa tin “Hàng loạt nước biểu tình phản đối thực phẩm biến đổi gen”, nêu sự kiện hơn 2 triệu người tại 436 thành phố thuộc 52 quốc gia trên thế giới từ Mỹ, Canada đến các nước Nam Mỹ và nhiều nước châu Âu rầm rộ xuống đường chống đối tập đoàn công nghệ sinh học Monsanto, cả hai trang tin này của Chính phủ Việt Nam đều nhận định: “Đây được coi là làn sóng biểu tình mạnh mẽ nhất đối với sản phẩm biến đổi gien - vốn tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với sức khỏe”.

Trước đó và sau đó, trên khắp thế giới đã và đang diễn ra những hoạt động kiên trì và quyết liệt của các nhà khoa học, các nhà bảo vệ môi trường và người tiêu dùng phản đối GMO.

Tôi muốn nhấn mạnh một bản tin đã cũ trên đây để thấy Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhà ta đã vội vã như thế nào khi ngày 11.8 năm nay chính thức phê duyệt 4 giống ngô biến đổi gen “đủ điều kiện sử dụng làm thực phẩm, thức ăn chăn nuôi”, trong đó có 2 giống ngô Bt 11, MIR162 của Công ty TNHH Syngenta Việt Nam, còn 2 giống ngô MON 89034 và NK603 của Công ty TNHH Dekalb Việt Nam, chính là của Monsanto. Các giống ngô này sắp tới sẽ được chính thức trồng một cách hợp pháp.

Tôi không đề cập đến các cuộc tranh cãi xung quanh thực phẩm GMO mà thế giới đang tốn rất nhiều hơi sức và giấy mực mà kết quả là chỉ có 27 nước cho phép áp dụng nhưng do những quy định tự do thương mại của WTO nên chúng được bán tràn lan trên thế giới. Tôi cũng không đề cập đến những phát biểu “khoa học” kiểu như “chúng ta đã dùng sản phẩm cây trồng biến đổi gen hàng chục năm nay mà chưa ai nhức đầu đau bụng cả” của ông Viện trưởng Viện Di truyền nông nghiệp Lê Huy Hàm, hay “người ta sợ ma vì chưa bao giờ thấy ma” của một bề trên cao hơn mà báo chí đã đăng tải.

Việc ăn các sản phẩm GMO có nguy hại cho sức khỏe hay không tôi cũng không “nói leo” theo người khác, vì khoa học dù dùng để ủng hộ hay để phản đối GMO cũng đều có giới hạn. Điều tôi muốn lưu ý là cái “con ma” GMO không thể nói là không thấy:

Thứ nhất, những hạt giống GMC của Monsanto đều có đăng ký độc quyền, tất cả các hạt giống đó đều vô sinh, tức là thu hoạch xong muốn trồng lại nhất định phải tiếp tục mua hạt giống của Monsanto, nghĩa là người nông dân và đất nước của người nông dân đó bị cột chặt vào Monsanto, điều đó nhiều người đều biết, ai chưa biết rồi cũng sẽ biết. Nhưng vấn đề không dừng lại ở đó.

Nếu như những cây trồng bằng giống của Monsanto phát tán phấn ra xung quanh khiến cho những cây trồng khác bị nhiễm gen cây của Monsanto, thì theo phán quyết của Tối cao pháp viện Mỹ, cây đó là sở hữu của Monsanto, mà phán quyết của Tối cao pháp viện Mỹ thì có giá trị gần như là Hiến pháp. Khi ấy, người có vườn cây bị nhiễm giống đó sẽ bị quy vào tội ăn trộm giống, dù anh ta hoàn toàn không hay biết. Điều này không phải là giả định mà là thực tế đã diễn ra ở Mỹ.

Trong những năm 1998-2000, Monsanto đã phát đơn kiện 9.000 nông dân Mỹ “ăn căp” giống bắp, đậu nành, bông cải… của Monsanto, các nông dân này hoàn toàn không hiểu điều gì đã xảy ra, nhưng vẫn bị tòa án buộc phải bồi thường cho Monsanto và phải hủy toàn bộ cây cối của họ, sau đó họ buộc phải dùng giống của Monsanto, nếu không muốn ra tòa thêm một lần nữa. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có biết chuyện này không? Chắc chắn là biết, vì thông tin này có đủ trên báo chí Mỹ và cũng đã được bà Lê Thị Phi Vân, một chuyên gia của Viện Chiến lược và Chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn, từng nêu trong một bài viết. Chuyện này có thể xảy ra ở Việt Nam không? Chắc chắn là có thể, vì Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với Mỹ và tham gia đầy đủ các điều ước quốc tế về thương mại. Trước mắt họ chưa làm ngay, nhưng trong tương lai họ có thể sẽ “thịt” khi con mồi đủ lớn.

Thứ hai, nông dân ký hợp đồng mua giống GMC của Monsanto thì đồng thời cũng buộc phải mua thuốc diệt cỏ Roundup của họ. Đây là thuốc diệt cỏ cực mạnh, một hóa chất mà nhiều tài liệu cho rằng mạnh tương đương như chất diệt cỏ màu da cam được rải trong chiến tranh Việt Nam, chỉ có giống của Monsanto mới “kháng” được thứ thuốc diệt cỏ này. Điều đó có nghĩa là, trên đất trồng giống GMC của Monsanto, không có thứ cây cỏ nào có thể sống được, cây trồng GMC của Monsanto mở rộng tới đâu cây cối bản địa bị tiêu diệt tới đó, muốn phục hồi không phải là chuyện dễ.

Chỉ với 2 sự thật đó thôi cũng đủ để thấy chuyện gì sẽ xảy ra trong tương lai, không phải tương lai xa mà tương lai gần, khi các giống cây GMC của Monsanto được trồng trong cả nước, lần lượt hết bắp tới đậu tương.

Các quan chức của chúng ta thường nói “đi tắt, đón đầu”, nhưng lại “đón đầu” cái thứ mà phần lớn thế giới đều muốn tránh xa. Chưa nói đến môi trường và sức khỏe, chỉ nói riêng về kinh tế thôi, các thị trường lớn như Mỹ, Canada, châu Âu, Nhật Bản chắc chắn là không cần đến thực phẩm GMO của ta, họ đang khao khát thực phẩm Organic và nhu cầu thực phẩm Organic của họ ngày càng tăng mạnh. Ở trong nước, người tiêu dùng sợ hãi GMO đến mức một số doanh nghiệp không dùng GMO buộc phải ghi chữ “không dùng GMO” trên sản phẩm của họ, trong khi lẽ ra chỉ có sản phẩm GMO mới phải công khai danh tánh. Nông dân ta sẽ bán sản phẩm GMO cho ai? Cho gia súc ăn thôi ư? Tới đây các nước lại sẽ buộc các sản phẩm thịt, cá dùng thức ăn GMO để chăn nuôi phải công khai danh tánh thì sao? Chẳng lẽ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn lại nhược tiểu đến mức mặc định dù có ăn GMO hay không thì bò heo gà vịt của chúng ta vạn năm nữa cũng không thể xuất khẩu được?

Nông nghiệp Organic trong một môi trường canh tác đầy rẫy thuốc trừ sâu diệt cỏ hiện nay một vài hộ khó mà làm nổi, nhưng nếu như có một chiến lược quốc gia bố trí lại vùng, định lại các chính sách thì hoàn toàn có thể làm được. Cuba trong điều kiện Liên Xô và Đông Âu sụp đổ và cấm vận vẫn bị duy trì, đã tự cứu mình bằng chính sự ưu việt của nông nghiệp Organic.

Còn tại Nga, theo trang tin rt.com, đầu năm nay Chính phủ nước này tỏ thái độ một cách dứt khoát, rằng nước Nga không có lý do gì để khuyến khích sản xuất hay nhập khẩu các sản phẩm GMO. Thủ tướng Dmitry Medvedev nói: “Nếu người Mỹ thích GMO, họ cứ ăn nó. Chúng tôi thì không. Chúng tôi có đủ đất đai và khả năng để sản xuất thực phẩm hữu cơ”. Có lẽ gì mà nước Nga lại lạc hậu hơn nước ta?

Với việc phổ cập các thứ GMC này, nó tỏa ra tới đâu thì nông nghiệp Organic của ta có mống nào lụi tàn tới đó. Đến lúc bức bách muốn làm lại thì không còn cơ hội.

Và tôi bỗng nghĩ đến chất độc da cam đã hủy diệt đất nước này, 40 - 50 năm vẫn còn di chứng trên người trên đất, không biết bao giờ mới khắc phục được, các nạn nhân khốn khổ của chúng ta vẫn đang đi kiện trong vô vọng. Thủ phạm của thứ chất độc này chính là Monsanto mà nước ta đang rước về, để “đón đầu thành tựu của nhân loại”, về pháp lý thì không có chỗ nào vi phạm, về đạo lý “xóa bỏ quá khứ hướng tới tương lai” cũng không có lý do bắt bẻ, nhưng nghĩ vẫn thấy rợn người…
(Xem thêm:Vết nhơ môi trường của Monsanto)

http://www.thanhnien.com.vn/pages/20141005/ky-su-organic-ky-7-noi-am-anh-gmo-va-chat-doc-da-cam.aspx
 
Back
Top