TRên là khoản 15' you can trade option, sau đây ta quay lại khái niệm cơ bản:
2. Option là gì?
Một option là một hợp đồng cho phép người mua được quyền (tự nguyện), nhưng không có nghĩa vụ (không bị ép buộc), được mua hoặc bán một underlying asset (tài sản gốc) với một giá xác định vào hoặc trước một ngày nhất định. Một option, giống như cổ phiếu hay trái phiếu, là một loại chứng khoán. Nó cũng là một hợp đồng ràng buộc (binding contract) với các điều khoản và nguyên tắc chặt chẽ.
Vẫn quá rắc rối? Ý tưởng ẩn chứa dưới một option hiện diện trong rất nhiều tình huống hàng ngày. Ví dụ thế này, bạn nhìn thấy một ngôi nhà mà bạn rất muốn mua. Đáng tiếc là bạn không có tiền mặt để mua nó trong vòng 3 tháng tới. Bạn đến gặp người chủ nhà và thỏa thuận về một option cho phép được mua ngôi nhà này trong vòng 3 tháng tới với giá 200 000 USD. Người chủ nhà đồng ý, nhưng với quyền ưu tiên mua này, bạn phải mất 3000 USD tiền phí (không phải tiền đặt cọc vì nó sẽ một đi không trở lại).
Bây giờ, về mặt lý thuyết sẽ có 2 tình huống xảy ra:
1. Ngôi nhà được phát hiện chính là nơi Elvis huyền thoại sinh ra. Kết quả là market value (giá thị trường) của ngôi nhà tăng vọt lên 1 triệu USD. Bởi vì người chủ đã bán cho bạn option trên, nên ông ta có nghĩa vụ phải bán cho bạn ngôi nhà này với giá 200 nghìn đô. Cuối cùng bạn được một khoản lời 797 nghìn đô (1 triệu – 200 nghìn – 3 nghìn).
2. Trong lúc đi thăm thú ngôi nhà, bạn phát hiện ra không chỉ tường nhà lở loét xi măng, mà còn có bóng ma của Henry đệ Tứ lởn vởn trong phòng ngủ chính; tệ hơn nữa, một gia đình chuột siêu thông minh đã xây lên một pháo đào kiên cố trong tầng hầm. Ngôi nhà mơ ước bỗng trở thành nỗi kinh hoàng. May mắn sao, bởi vì bạn mới mua một option, bạn có thể không tiếp tục theo đuổi vụ mua bán này nữa. Dĩ nhiên, bạn mất béng 3 nghìn đô tiền mua option.
Ví dụ trên chỉ ra hai điểm quan trọng. Thứ nhất, khi bạn mua một option, bạn có quyền nhưng không có nghĩa vụphải làm điều đó. Bạn có thể mặc kệ ngày đáo hạn trôi qua, và khi đó option mất hiệu lực. Khi đó, bạn mất 100% số vốn đầu tư của bạn, chính là số tiền bạn dùng để mua option. Thứ hai, một option là một hợp đồng giao dịch về một tài sản gốc. Vì lý do này, options được gọi là phái sinh, tức là một option phái sinh giá trị của nó từ một thứ khác. Trong ví dụ này của chúng ta, ngôi nhà là tài sản gốc. Thông thường, tài sản gốc sẽ là một cổ phiếu hoặc một chỉ số (vd: chỉ số Vn-index, Ha-index).
2.1. Call và Put
Có hai loại options được gọi là call và put
Một quyền chọn call cho phép người nắm giữ quyền được mua một tài sản ở một giá xác định trong vòng một quãng thời gian xác định. Call giống như bạn đang ở long position (vị thế mua) một cổ phiếu. Những người mua call hy vọng cổ phiếu sẽ tăng đáng kể trước khi option đáo hạn.
Một quyền chọn put cho người nắm giữ quyền được bán một tài sản ở một giá xác định trong một khoảng thời gian xác định. Quyền chọn Put tương tự việc nắm giữ vị thế bán (short position) một cổ phiếu. Người mua quyền chọn Put hy vọng giá cổ phiếu sẽ tụt giảm trước khi option đáo hạn.
2.2. Những người tham gia trong thị trường Option :
Có 4 kiểu người tham gia trong thị trường quyền chọn dựa vào vị trí họ nắm giữ:
1. Người mua quyền chọn calls (Buyers of calls)
2. Người bán quyền chọn calls (Sellers of calls)
3. Người mua quyền chọn puts (Buyers of puts)
4. Người bán quyền chọn puts (Sellers of puts)
Người mua quyền chọn thì được gọi là holder (người cầm quyền chọn) và người bán quyền chọn được gọi là writer (người cung cấp); ngoài ra, người mua được gọi là có long position (vị thế mua), và người bán được gọi là có short position (vị thế bán).
Sau đây là sự khác nhau quan trọng giữa buyer và seller:
- Call holder (người cầm quyền chọn call) và put holder (người cầm quyền chọn bán) không có nghĩa vụ phải mua hay bán. Họ được phép lựa chọn việc thi hành quyền lợi của họ hay không tùy ý.
- Tuy nhiên, call writer (người cung cấp quyền chọn call) và put writer (người cung cấp quyền chọn put có nghĩa vụ phải mua hoặc bán. Tức là người bán phải cung cấp hàng theo thỏa thuận mua hay bán.
Đừng lo nếu bạn thấy mọi thứ quá rắc rối chi vì nó đúng là… rất rắc rối ;) . Vì lý do này, chúng ta sẽ tiếp tục nghiên cứu Option chỉ từ góc độ của người mua. Bán option phức tạp hơn và có thể đem lại nhiều rủi ro hơn. Hiện tại, bạn chỉ cần hiểu rằng luôn có hai phía trong bất cứ một hợp đồng option nào là được :D
2.3. Thuật ngữ nhà nghề
Để trade option, bạn cần phải biết được những thuật ngữ riêng được dùng trong thị trường option.
Mức giá mà ở đó một cổ phiếu gốc (underlying stock) có thể được mua hoặc bán được gọi là strike price (giá khớp quyền). Đây là mức giá mà giá cổ phiếu phải vượt cao hơn (trong quyền chon call) hoặc xuống thấp hơn (với quyền chọn put) trước khi một vị thế có thể thực thi để kiếm lời. Tất cả những việc này phải diễn ra trước thời điểm đáo hạn.
Một option được giao dịch trên một sàn giao dịch option quốc gia như Sàn giao dịch Option Chicago (Chicago Board Option Exchange – CBOE) thì được gọi là một option niêm yết. Loại option này sẽ có Strike price cố định và ngày đáo hạn. Mỗi option niêm yết đại diện cho 100 cổ phiếu của một công ty (được gọi là một contract – hợp đồng).
Với một quyền chọn call, quyền chọn trên được gọi là in-the-money khi giá cổ phiếu > strike price (giá khớp quyền). Một quyền chọn put được gọi là in-the-money khi giá cổ phiếu < strike price. Khoản tiền chênh lệch giữa giá thị trường và strike price khi một option đang in-the-money thì được gọi là instrinsic value (giá trị cốt lõi). Ví dụ một quyền chọn call của một cổ phiếu có strike price là $15, và giá thị trường của cổ phiếu đó đang là $25, khi đó instrinsic value của quyền chọn call trên là $10.
Tổng chi phí (giá cả) của một Option được gọi là the premium. Mức giá này được quyết định bởi các yếu tố bao gồm giá cổ phiếu, strike price (giá khớp quyền), thời gian còn lại cho tới khi đáo hạn (giá trị thời gian, time value) và Volatility (tính biến động). Bởi vì những yếu tố trên, việc tính Premium của một option rất phức tạp và nằm ngoài phạm vi phổ cập căn bản của tutorial này
(Mr.Cá mực dịch)