Khủng hoảng Tài chính: Nhìn lại bài học kinh nghiệm

arrowhanoi

Super Moderator
Staff member
Để có cái nhìn toàn diện hơn về những biến động vĩ mô trong thời gian qua, chúng ta cùng nhau xem lại nguyên nhân, diễn biến, con đường đi qua khủng hoảng của các quốc gia châu Á và Nam Mỹ thời gian 1999 -2002.

Em sưu tầm một số nội dung liên quan đến khủng hoảng tài chính và cập nhật để mọi người cùng đọc và nhìn nhận đối chiếu với những gì Việt Nam đang mắc phải. Hy vọng chúng ta sẽ có cái nhìn rõ nét hơn về vấn đề này.


NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH CHÂU Á 1997

Cho đến nay khi bàn luận về nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng nhiều nhà kinh tế vẫn đưa ra các ý kiến khác nhau song tựu trung lại các nhà kinh tế đều nhận định khủng hoảng Châu Á bắt nguồn một phần từ chính Chính sách kinh tế sai lầm của các nước Châu Á do sự tự mãn thái quá của các Chính phủ trong việc phòng ngừa rủi ro có thể xảy đến cho nền kinh tế.

Vào năm 1997, ở nhiều nước Châu Á, quá trình phát triển thần kỳ châu Á đã nhường đường cho cuộc khủng hoảng châu Á, một sự thay đổi đột ngột từ tăng trưởng cao xuống suy thoái sâu sắc. Bốn nước bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi cuộc khủng hoảng, đó là Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc và Thái Lan.
Vào thời điểm cuộc khủng hoảng xảy có rất ít cảnh báo đến từ phía các nhà kinh tế đối với sự tăng trưởng mất cân đối của các nước trên. Mặc dù cho đến hiện nay, nhiều nhà kinh tế cho rằng cuộc khủng hoảng này có thể tiên đoán được, và những nền kinh tế châu Á này vào thời kỳ đó đang gánh chịu nhiều vấn đề nghiêm trọng suất phát từ những khiếm khuyết trong mô hình tăng trưởng mà không sớm thì muộn những khiếm khuyết này cũng sẽ dẫn đến một cuộc khủng hoảng.

Trong nhiều năm trước cuộc khủng hoảng, 4 nước này đã bị thâm hụt nhiều về cả thương mại lẫn tài khoản vãng lai. Vào năm 1996, 3 trong 4 nước này đã bị thâm hụt thương mại nhiều. Và cả 4 bị thâm hụt tài khoản vãng lai, đi từ 3,3% GDP ở Indonesia đến 8,5% GDP ở Thái Lan.

Thâm hụt nhiều về thương mại hay tài khoản vãng lai thường là dấu hiệu nguy hiểm, cho thấy cần phải điều chỉnh kinh tế vĩ mô, và có thể bao gồm sự giảm giá nội tệ. Tuy nhiên, cho đến trước cuộc khủng hoảng các nước trên vẫn cho rằng thâm hụt thâm hụt thương mại không đáng quan ngại và bỏ qua tín hiệu cảnh báo này.

Trong kinh tế học vĩ mô, cán cân thương mại bằng tiết kiệm tư nhân cộng tiết kiệm nhà nước trừ đi tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Do đó, một sự thâm hụt thương mại có thể do 3 nguyên nhân nền tảng gây ra là tiết kiệm tư nhân thấp, Chính phủ chi tiêu quá mức, hay nói cách khác là thâm hụt ngân sách, đầu tư cao.

Các nước trên đều cho rằng thâm hụt thương mại của nước họ xuất phát chủ yếu từ mức đầu tư cao nên không cần phải lo lắng: đầu tư cao có nghĩa là sản lượng cao trong tương lai và do đó có khả năng hoàn trả trong tương lai.

Vào năm 1996, tỷ lệ đầu tư trên GDP nằm trong khoảng từ 30,8% ở Indonesia đến 41,7% ở Thái Lan. (Để so sánh, tỷ lệ đầu tư trên GDP ở Mỹ năm 1996 là 15%). Ở cả 4 nước, chính phủ cũng đang có thặng dư ngân sách. điều này có nghĩa là nguyên nhân trực tiếp của thâm hụt thương mại là đầu tư cao chứ không phải tiết kiệm thấp. Tuy nhiên tỷ lệ đầu tư cao này thực ra không phải là những tin tốt lành như hầu hết các nha hoạch định chính sách tại các nước này công bố. Về dài hạn tăng trưởng của một quốc gia không thể dựa vào chỉ một mình tăng trưởng vốn đầu tư.

Điều quyết định tỷ lệ tăng trưởng của một nước trong dài hạn chính là tốc độ tiến bộ công nghệ của nước đó khiến cho việc gia tăng sản lượng hàng hóa trở nên bền vững. Một nước mà không có tiến bộ công nghệ thì không thể duy trì tăng trưởng dương mãi mãi. Tuy nhiên tại thời điểm năm 1997 các nước trên đã tham gia vào một cuộc đua tốc độ tăng trưởng trong ngắn hạn bằng việc sẵn lòng đầu tư một cách dồn dập và bất chấp hiệu quả. Điều này giống như một quả bóng bị bơm căng và việc quả bóng này bị nổ là điều hoàn toàn dự đoán trước được.

Gia tăng đầu tư vô tội vạ khiến cho các dự án đầu tư ngày càng trở nên kém hiệu quả và rủi ro nhưng các nhà đầu tư cả trong lẫn ngoài nước vẫn sẵn lòng đầu tư bởi vì họ lạc quan vào một tương lai tươi đẹp do Chính phủ vẽ nên. Các ưu đãi của Chính phủ đã ru ngủ các nhà đầu tư khiến họ cảm thấy chính phủ sẽ cứu họ nếu đầu tư trở nên xấu đi. Vào năm 1997 khi các nhà đầu tư nước ngoài mất lòng tin vào Chính phủ các nước vànhận ra vấn đề của các nước châu Á, họ quyết định vốn ồ ạt và châm ngòi cho cuộc khủng hoảng.

Các bác có thấy mấy nét tương đồng Việt Nam không nhỉ:

- Thâm hụt cán cân thương mại
- Tỷ lệ tiết kiệm thấp
- Tỷ lệ đầu tư trên GDP cao (đầu tư vô tội vạ)
- Không có tiến bộ về công nghệ

...còn tiếp...
 
Last edited by a moderator:
Trong các phân tích về khủng hoảng tài chính châu Á, có loạt bài của giáo sư Võ Tá Hân rất hay, em xin trích dẫn ở đây để mọi người cùng nghiên cứu.

Sốt bất động sản và khủng hoảng kinh tế châu Á


Rất nhiều giấy mực đã đổ ra để phân tích về nguyên nhân đưa đến sự sụp đổ bất ngờ của cái gọi là "phép lạ kinh tế của châu Á". Trong phạm vi bài viết này, chỉ xin bàn về vai trò của các cơn sốt nhà đất trong cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á hiện tại, qua những gì đã và đang xảy ra tại Singapore.

+ Phất lên nhờ nhà đất, điêu đứng cũng vì nhà đất

Nói chung, so với các nước trong vùng, Singapore chịu ảnh hưởng tương đối nhẹ nhất của cơn bão kinh tế. Đó là nhờ nhiều yếu tố. Trong đó có việc Chính phủ Singapore đã cho ban hành những biện pháp cứng rắn để ngăn chặn cơn sốt nhà đất từ tháng 5/1996, khoảng một năm trước khi cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực bắt đầu.

Để thấy rõ những diễn biến của cơn sốt nhà đất tại Singapore, hãy xem thêm một ví dụ khác. Vào khoảng giữa thập niên 1970, có một cặp vợ chồng người Singapore đứng ra thành lập một công ty phát triển bất động sản với số vốn 200.000 SGD (lúc bấy giờ chỉ vào khoảng gần 80.000 USD). Họ đi vay ngân hàng được 80.000 SGD để mua một mảnh đất xây 30 ngôi nhà. Công trình xây cất chưa xong nhưng gặp lúc giá nhà đất bắt đầu phất lên, ngân hàng định giá lại và cho biết trị giá công trình của họ từ 1 triệu SGD đã tăng lên đến 3 triệu SGD. Ngân hàng sẵn sàng tái tài trợ số nợ cũ, từ 800.000 SGD (nghĩa là 80% của 1 triệu) nay lên đến 2,4 triệu SGD (80% của 3 triệu), tức là cho họ vay thêm 1,6 triệu SGD nữa.
Với số tiền "từ trên trời rơi xuống" này, họ mua một khách sạn 60 phòng với giá 6 triệu SGD, dùng 1,6 triệu SGD làm vốn và vay một ngân hàng khác 4,4 triệu SGD đã vay trước đây, còn lại trong tay 3,6 triệu SGD. Nên nhớ là cho đến lúc này, họ vẫn làm chủ 30 ngôi nhà mới xây xong đang cho thuê và một khách sạn.

Bổn cũ soạn lại, với 3,6 triệu SGD trong tay, họ mua thêm một khách sạn thứ hai trị giá 20 triệu SGD. Và chỉ vài năm tiếp tục vay đi trả lại như thế, cuối cùng họ có trong tay 20 triệu SGD, và dựa vào đó vay thêm 40 triệu SGD mua một khách sạn thứ ba trị giá 60 triệu SGD ở phố Orchard sang trọng.

Cơn sốt nhà đất tại Singapore đột ngột chấm dứt với cuộc khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ giữa thập niên 1980. Trong những năm kế tiếp cũng như hầu hết các công ty khác ở Singapore, công ty bất động sản của cặp vợ chồng này đã phải trải qua một giai đoạn vô cùng điêu đứng. Họ đã phải lần lượt bán hết 30 ngôi nhà và hai khách sạn đầu tiên để trả nợ, nhưng vẫn gồng mình để giữ được khách sạn thứ ba với số tiền vay nợ ngân hàng ngày càng chồng chất.

Sau một thời gian ổn định kinh tế, đến năm 1994 một cơn sốt nhà đất khác lại bắt đầu tại Singapore. Khi giá nhà cửa lên đến mức khủng khiếp nhất vào năm 1996, công ty của hai vợ chồng trên may mắn bán được khách sạn còn lại ấy với giá 480 triệu SGD. Sau khi trả hết số nợ cũ (từ 40 triệu SGD đã lên đến khoảng 100 triệu SGD), họ có trong tay 380 triệu SGD (tương đương 270 triệu USD). Như vậy, chỉ sau 20 năm, công ty này đã biến 80.000 USD thành một cơ nghiệp khổng lồ khoảng 270 triệu USD. Và chỉ trong vòng 10 năm trước khủng hoảng, trị giá của cái khách sạn này đã tăng 8 lần (từ 60 triệu SGD lên đến 480 triệu SGD).

Hai cơn sốt nhà đất tại Singapore trong vòng 20 năm qua đã làm thay đổi hoàn toàn bàn cờ kinh tế trong nước. Trước mắt, một số tập đoàn công ty từ chỗ vô danh đã phất lên nhờ giá trị bất động sản của họ vụt tăng giá và nhờ các ngân hàng đã không ngớt tung tiền cho vay. Thành công đến quá dễ dàng nên rất nhiều công ty khác cũng đã nhảy vào ngành bất động sản, từ các tập đoàn... xe buýt, đóng tàu bè, dệt may, cho đến lắp ráp hàng điện tử... mặc dầu họ đều chưa hề có tí kinh nghiệm nào về xây cất. Và chính trong thời gian này nhiều tập đoàn cũng đã bắt đầu bỏ tiền đầu tư vào các nước trong vùng.

Những biến chuyển trên đây không hẳn chỉ riêng ở Singapore mới có mà thực sự đã xảy ra rập khuôn tại tất cả các nơi khác trong vùng từ Thái Lan, Malayxia, Indonesia cho tới Hàn Quốc, Hồng Kông... Tăng trưởng kinh tế bắt nguồn từ sự thổi phồng giá trị bất động sản đã tạo nên một cơ cấu rất mong manh. Sự sụp đổ của đồng baht Thái Lan vào tháng 7/1997 chỉ là cái ngòi nổ, đưa đến một sự sụp đổ kinh tế dây chuyền tại tất cả các nước trong vùng.

Chỉ riêng ở Singapore từ tháng 7 năm ngoái (đoạn 1998) đến nay, tính theo nội tệ, giá nhà đất đã xuống khoảng 35%. Điều này có nghĩa khách sạn được đưa ra làm thí dụ ở trên từ 380 triệu SGD giảm còn 247 triệu SGD. Và dựa trên hối suất mới thì chỉ còn 145 triệu USD, mất đi 125 triệu USD, hay giảm giá 46% trong một năm. Nếu chỉ một khách sạn nhỏ như vậy mà đã mất đi 125 triệu USD, ta cũng đủ tưởng tượng trị giá tài sản của cả nền kinh tế Singapore đã vụt biến mất sẽ khổng lồ đến mức nào. Và nếu Singapore đã phải mất mát như thế thì tình hình tại các nước khác trong vùng lại còn bi đát đến chừng nào.

Đồng thời ta cũng có thể đoán trước rằng vấn đề không sẽ dừng ở đó mà trong thời gian tới sẽ có rất nhiều công ty buộc phải phá sản và tình hình sẽ còn nguy ngập hơn nhiều. Vấn đề nóng bỏng tại Singapore trong mấy tháng qua là việc các công ty cũng như các người đi vay mua cổ phiếu hoặc bất động sản đang bị ngân hàng bắt phải "châm thêm tiền" (top up). Nếu vào tháng 7 năm ngoái, bạn mua 100.000 cổ phiếu với giá 15SGD/cổ phiếu thì ngân hàng sẽ cho bạn vay 1,2 triệu SGD (80% giá trị), bạn chỉ cần bỏ ra 300.000 SGD mà thôi. Đến cuối năm ngoái, giá trị cổ phiếu xuống 10 SGD/cổ phiếu. Một buổi sáng đẹp trời, bạn sẽ nhận được một cú điện thoại từ ngân hàng cho biết một cách rất nhã nhặn rằng vì giá 100.000 cổ phiếu của bạn chỉ còn có 1 triệu SGD, họ chỉ có thể cho vay 800.000 SGD. Do đó bạn được yêu cầu phải "châm thêm tiền" hoặc bằng cách giao cho ngân hàng thêm cổ phiếu khác sao cho tổng giá trị thế chấp đủ số 1,2 triệu, hoặc trả lại cho ngân hàng 400.000 SGD trong vòng... ba ngày! Gồng mình hết sức, bạn có thể qua được khó khăn này nhưng chưa hết vì sáu tháng sau, khi cổ phiếu xuống 5 SGD/cổ phiếu, trị giá của 100.000 cổ phiếu của bạn giờ chỉ còn 500.000 SGD. Ngân hàng cho biết vì sợ rủi ro, nay họ chỉ có thể cho vay 60% của giá trị cổ phần, tức là có 300.000 SGD mà thôi, và mong bạn... thông cảm. Và dĩ nhiên nếu bạn không trả được thì họ sẽ rất tiếc mà... đưa bạn ra tòa! Vì thế số ngưới đầu tư và công ty tuyên bố phá sản ở Singapore đã gia tăng đột ngột trong vòng sáu tháng qua.
 
Last edited by a moderator:
+ Đầu mối của tất cả

Có thể nói rằng sự sụp đổ của cơn sốt nhà đất là một trong những nguyên nhân chính đã đưa đến cuộc khủng hoảng kinh tế trong vùng. Tuy nhiên để tìm hiểu quá trình, chúng ta cần phải quay về nhìn lại căn bản tài chính gia đình vì đây là đầu mối của tất cả.

Nếu ví cấu trúc kinh tế của một quốc gia như một kim tự tháp khổng lồ thì cái mà ta thường nghe nói đến về những hoạt động tài chính, thương mại, kỹ nghệ... chỉ là phần đỉnh, trong khi đó phần đáy của kim tự tháp là tất cả những cá nhân đã góp phần trong quá trình sản xuất và tiêu thụ trong nước. Nếu phần đáy lung lay thì cái đỉnh khó có thể bền vững.

Tại Singapore, khi trị giá các cơ sở thương mại tăng lên vùn vụt thì giá nhà cửa tư nhân cũng đồng thời nhảy vọt. Lấy một thí dụ cụ thể, một nhân viên trung bình làm việc trong một công ty tại Singapore mua một ngôi nhà chung cư vào năm 1991 với giá 90.000 SGD. Chỉ năm năm sau, ngôi nhà ấy đã được bán đi với giá tăng gấp bốn lần.

Cơn sốt nhà đất này đã đưa đến nhiều ảnh hưởng tai hại. Trước mắt, ai ai cũng nghĩ rằng đầu cơ nhà đất là con đường mau nhất để làm giàu cho nên nhiều người đã bỏ tất cả để đổ xô vào việc mua bán nhà cửa. Vấn đề trở nên tệ hại đến nỗi một viên chức cao cấp đã chua chát tuyên bố rằng nếu không có những biện pháp cứng rắn thì Singapore chắc rồi sẽ trở thành một nước mà dường như tất cả mọi người đều chỉ muốn làm nghề môi giới buôn bán nhà đất. tài nguyên đất nước thay vì đổ vào các ngành xây dựng cơ bản, kỹ thuật, công nghệ, nghiên cứu thì lại đổ vào nhà đất quá nhiều.

Tai hại thứ hai là một khi giá nhà cửa lên quá cao, người dân Singapore phải bỏ rất nhiều tiền để trả nợ mua nhà. Từ đó sẽ đưa đến áp lực đòi hỏi tăng lương khiến giá thuê nhân công trở nên đắt đỏ. Yếu tố này cùng với việc giá thuê văn phòng, cơ xưởng ngày càng gia tăng khiến nhiều công ty nước ngoài đặt lại vấn đề, tính chuyện chuyển đầu tư từ Singapore qua các nước khác.

Nếu phân tích cho kỹ thì đầu mối sự sụp đổ của cơn sốt nhà đất có thể thấy được từ chỗ "khả năng trả nợ" của người dân đã lên đến một giới hạn cực kỳ nguy hiểm. Một tỷ số cực kỳ quan trọng mà rất ít ai quan tâm đến là cái tỷ lệ giữa số tiền mà một gia đình trung lưu phải trả mỗi tháng để vay nợ mua nhà, trên số tiền lương (sau khi trừ thuế) mang về mỗi tháng. Thông thường thì tỷ số này nên ở vào khoảng một phần ba, tức là trong tổng số tiền lương mang về nhà mỗi tháng, mỗi gia đình chỉ nên dành ra khoảng 33% để trả nợ mua nhà. Ở Nhật Bản, khi giá nhà đất vọt lên tận mây xanh, trước khi nền kinh tế Nhật Bản rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng từ gần 10 năm qua, tỷ số này có lúc đã lên quá 100%! Người Nhật lúc bấy giờ tính ra trung bình phải mất tới 90 năm mới trả xong nợ mua nhà, hay nói nôm na là phải làm việc ba đời mới tậu được một ngôi nhà. Riêng ở Singapore, cách đây hơn một năm, có một số liệu cho biết, người Singapore trung bình tiêu 92% số lương vào cái nhà và chiếc xe hơi của họ! Tại sao dân chúng lại có thể chịu đựng được một số nợ cao như thế? Trước mắt một phần cũng vì ngân hàng đã cho mọi người vay quá dễ dàng, và vì ai cũng nghĩ rằng giá nhà chỉ có lên cao hơn mà thôi. Cứ mua ngay đi rồi chịu khó vài năm sau đó hoặc hy vọng tiền lương tăng lên để dễ trả nợ, bằng không thì cũng bán đi có lãi nhiều, và đấy là cái tâm lý chung của hầu hết mọi người.

Nếu tất cả mọi người đều "nợ như chúa chổm" như vậy thì toàn bộ cơ cấu kinh tế sẽ hết sức bấp bênh và sự sụp đổ sẽ xảy ra không biết giờ phút nào. Nói rộng ra thì trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế, toàn vùng Đông Nam Á hầu như đều trải qua những cơn sốt bất động sản tương tự. Và số lượng tiền khổng lồ từ nước ngoài đổ vào đầu tư trong vùng như dầu đổ vào lửa khiến sốt càng cao.

Tuy Singapore đã đưa ra những biện pháp để làm giảm cơn sốt bất dộng sản từ hơn một năm trước, nhưng Phó Thủ tướng Lý Hiển Long, con trai của ông Lý Quang Diệu, trong một bài diễn văn hôm 30/7/1998 đã tỏ ý tiếc là chính phủ đã không ra tay sớm hơn. Một nền kinh tế quá dựa vào bất động sản để làm thế mạnh phát triển thì không chóng thì chầy sẽ phải trả giá đắt. Bất động sản là một yếu tố quan trọng trong bất cứ một nền kinh tế nào, tuy nhiên không nên vì thế mà để quá nhiều tài nguyên đất nước đổ vào lĩnh vực này được.

Điều cần nhất là tránh cho mọi người có cái ý tưởng rằng bất động sản là con đường dễ dàng để làm giàu. Cái lợi ngắn hạn của một thiểu số người rồi chỉ sẽ đưa đến những hậu quả tai hại cho tất cả mọi người trong đường dài mà thôi.
 
Anh nhiều tư liệu quý quá....

Cứ đọc dần dần, mục này chắc kéo cũng được chục trang. Nhìn lại Việt Nam mình thấy ko nhiều khác biệt đâu. Hè hề...
 
Last edited by a moderator:
@ arrow... vậy giải pháp của bọn nó là gì. Có liên quan gì đến vay nợ nước ngoài không???
 
@ arrow... vậy giải pháp của bọn nó là gì. Có liên quan gì đến vay nợ nước ngoài không???

Em sẽ pót đầy đủ các loại tài liệu lên. Bác cứ từ từ. Đã bảo làm đủ thì dài cả chục trang mà
 
Nhân việc hệ thống Ngân hàng đang nóng, em pót luôn phần Ngân hàng để các bác xem có giống Việt Nam ko nhé
 
NGÂN HÀNG TRONG CUỘC KHỦNG HOẢNG

Những cơn sốt nhà đất và cổ phiếu đã gây ra những ảnh hưởng lớn trong cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á. Tuy nhiên phải nói rằng nếu không có những số tiền khổng lồ từ nguồn đầu tư và của các ngân hàng đổ vào châu Á thì trị giá bất động sản và cổ phiếu đã không thể tăng vọt như thế được.

Từ cho vay nhảy qua đầu tư

Tại Singapore, như thường lệ tháng 8 là tháng mà các công ty loan báo kết quả hoạt động trong sáu tháng đầu năm. Tuy đã chuẩn bị tinh thần nhưng năm nay (2008), giới quan sát cũng đã không khỏi bàng hoàng trước những con số âm quá lớn so với dự đoán. Mức lãi của tất cả các ngân hàng lớn ở Singapore đã sụt khoảng 50% so với sáu tháng đầu năm ngoái vì phải khấu trừ những khoản lỗ nặng nề từ những món nợ cho vay khó đòi. Đối với các nước khác trong vùng thì tình hình còn bi đát hơn. Ngày 26/8 Ngân hàng Maybank lớn nhất của Malaysia công bố mức lãi sáu tháng đầu năm 1998 giảm 90%. Tại Indonesia và Thái Lan thì không còn nói chuyện lãi nhiều ít mà vấn đề cấp bách là làm sao để sống còn, vì một số ngân hàng bị lỗ lã nặng nề phải đóng cửa và một số khác buộc phải sáp nhập. Những lỗi lầm của các ngân hàng trong vùng bắt đầu từ đâu, và chúng ta có thể học được gì qua những bài học của họ?

Theo ý tôi thì lỗi đầu tiên là việc họ đã đi quá xa cái chức năng chính yếu của mình mà lần bước sang những lĩnh vực khác. Đã là một ngân hàng thương mại thì nhiệm vụ chính là nhận tiền ký thác và dùng tiền ấy cho vay. Tuy nhiên, trong thời kỳ các con rồng châu Á cất cánh vừa qua, có thể nói rằng nhiều ngân hàng đã từ lĩnh vực cho vay bước sang... đầu tư.

Trong việc cho vay, ngân hàng đòi hỏi món tiền nợ phải được hoàn trả sau một khoảng thời gian, kèm theo một số tiền lãi đã quy định. Người đi vay nếu có thành công lớn thì ngân hàng cũng không đòi hỏi thêm một đồng tiền lãi nào cả. Vì tiền cho vay là tiềm tạm lấy của các người ký thác ra dùng nên khi cho vay, ngân hàng phải hết sức cẩn thận, bắt buộc phải có thế chấp đầy đủ để nếu chẳng may công trình thất bại thì còn thoát được bằng cách bán các vật thế chấp để lấy lại vốn. Không có thế chấp thì ít ra ngân hàng cũng đòi hỏi phải có các bảo đảm cá nhân...

Việc đầu tư trái lại mang tính mạo hiểm, thường ít có điều kiện ràng buộc và thời gian ứng tiền cũng không xác định nhưng ngược lại thì người đầu tư có cơ hội được chia lãi nhiều hơn nếu công trình ấy trúng lớn. Việc đầu tư mang nhiều rủi ro hơn và do đó một ngân hàng thương mại thuần tuý không thể nào đem tiền ký thác của người khác ra để "đánh bạc" được. Tại các nước trong vùng, trong giai đoạn đầu khi các ngân hàng vừa thành hình thì việc cho vay hầu như hoàn toàn được đặt trên căn bản thế chấp. Hễ có của thế chấp thì ngân hàng mới cho vay và vai trò của ngân hàng lúc ấy tương đối đơn giản vì chỉ cần quan tâm đến các vật thế chấp là đủ. Khi có nhiều ngân hàng khác ra đời thì việc cạnh tranh trở nên gắt gao hơn. Người đi vay không ai muốn nộp nhiều thế chấp hoặc bảo đảm, nên nếu có mọt ngân hàng nào khác tỏ vẻ "nới tay" hơn thì họ sẽ đổ xô đến vay. Ngân hàng nào quá cứng rắn sẽ mất dần khách hàng khiến tiền ký thác bị ứ đọng. Càng muốn lãi nhiều, ngân hàng càng bớt khắt khe hơn trong việc cho vay. Từ chỗ cho vay trên căn bản "bảo thủ" với đầy đủ thế chấp, nhiều ngân hàng đã trở nên dễ dãi và tung tiền vào những dự án đầy rủi ro và hoạt động như những nhà đầu tư.
 
Hiện trạng các NH Việt Nam hiện tại có giống bài học lịch sử này ko nhỉ? Lợi nhuận của các NH đang co lại. Vấn đề cấp bách với các NH ko là lãi ít hay lãi nhiều mà là vấn đề sống còn.

Các NH Việt Nam thường có công ty con làm BDS, và như vậy họ khác nào chủ đầu tư.

Mặt khác, các NH xiết nợ BDS hiện tại dù ko có công ty con làm BDS thì cũng đã trở thành chủ đầu tư BDS rồi.
 
Hay quá, hóa ra hồi trước Sing cũng giống mình nhỉ? Thế sau này khéo mình cũng giống Sing đây.....
 
BÀI HỌC NHÌN LẠI

Làm ngân hàng thời nay không dễ

Sự cạnh tranh đã khiến ngân hàng bớt đặt nặng vào thế chấp mà chú trọng nhiều hơn đến khả năng trả nợ của các dự án cho vay. Nghệ thuật cho vay từ đó trở nên phức tạp hơn. Làm ngân hàng thời nay không còn dễ dàng như xưa mà đòi hỏi phải có kiến thức và kinh nghiệm rộng lớn. Điều này đưa đến nhược điểm thứ hai là vấn đề thiếu cán bộ chuyên môn trong ngành ngân hàng.

Tại các nước Âu Mỹ, ngân hàng đã phát triển hơn trăm năm nay nên sự đào tạo cán bộ và việc thăng quan tiến chức trong ngành đã tiến hành rất chính quy chứ không theo lối "mỳ ăn liền" như ở các nước châu Á. Bước vào một ngân hàng ở châu Âu chẳng hạn, ta có thể tìm thấy những nhà kinh doanh ngân hàng lăn lộn trong nghề đến bạc đầu mà cũng vẫn chỉ là một chuyên viên tín dụng. Trong khi đó tại các nước trong vùng thì lực lượng chuyên viên ngân hàng còn rất trẻ. Khi làm Tổng giám đốc của Singapore Finance, mỗi năm thường cho tuyển hơn một chục sinh viên mới tốt nghiệp đại học vào làm việc, tôi để ý rằng đối với lứa trẻ, tuy chỉ vừa ra trường với bằng cử nhân và làm việc chưa có mấy kinh nghiệm mà trung bình cứ sau hai năm, nếu không cho họ một chức vụ gì thật kêu và có gắn chữ "giám đốc" (như phó giám đốc, phụ tá giám đốc gì đó) thì y như là họ sẽ từ chức để chạy qua một ngân hàng khác.

Hầu hết những vị giám đốc quá trẻ này đều chưa có "kinh nghiệm chiến trường" nhưng đã được giao cho những số tiền quá lớn, cáng đáng những trách nhiệm vượt sức mình. Ngoài kiến thức học hỏi từ nhà trường và sách vở, một nhà ngân hàng chuyên nghiệp cần có nhiều kinh nghiệm mới quán xuyến được công việc để tránh không vung tiền vào những khoản cho vay xấu, và để có thể lèo lái ngân hàng mình qua cơn khủng hoảng. Thực trạng là thế, nhưng biết làm sao được khi kinh tế phát triển quá nhanh mà người có khả năng thì thiếu!

Một nhược điểm nữa của nhiều ngân hàng trong vùng là đã bừa bãi đổ tiền cho vay vào những công ty liên hệ. Hầu như tập đoàn lớn nào cũng muốn có trong tay một ngân hàng hay một công ty tài chính. Đối với họ, ngân hàng là công cụ để hút vốn chuyển về tài trợ cho các công ty mình, giúp tập đoàn tự phát triển mà không cần tìm nguồn tài trợ bên ngoài. Trong thập niên 1960, khi luật lệ ngân hàng chưa phân mình, rất nhiều tập đoàn tư nhân trong vùng đã thành lập ngân hàng với mục đích này. Họ lợi dụng giai đoạn "nước đục" để "thả câu" cho những công ty của bà con bạn bè vay quá cẩu thả, làm nhiều ngân hàng sụp đổ khiến bao người ký thác mất tiền.

Nhằm ngăn chặn tình trạng lạm dụng này, chính phủ các nước trong vùng đã phải cải tổ đạo luật ngân hàng. Trong tất cả các nước, có lẽ Singapore là đã áp dụng những biện pháp cứng rắn nhất để tạo nên một bức tường hoàn toàn cách biệt giữa ngân hàng và các công ty cùng tập đoàn. Luật Ngân hàng và Công ty Tài chính của Singapore nêu rõ những tiêu chuẩn rất gắt gao về mặt quản lý. Chẳng hạn như khi muốn cho một công ty liên hệ vay một số tiền, ngân hàng phải trình lên Ngân hàng Trung ương hoặc Cơ quan quản trị thị trường chứng khoán để xin phép và phải trả lời hàng tá các câu hỏi hóc búa đặt ra. Tất cả những món nợ cho thân nhân của ban quản trị, ban giám đốc và nhân viên vay cũng đều phải được kê khai rõ ràng. Những quy định này gắt gao đến nỗi các công ty trong tập đoàn thường rất ngại đi vay từ các ngân hàng bà con mà đành phải tìm các nguồn vay khác.

Nói chung, nghề cho vay không phải là dễ dàng vì có quá nhiều rủi ro. Lấy một thí dụ tiêu biểu, ngân hàng nhận tiền ký thác với lãi suất 6%/năm và cho vay được 8%/năm. Trừ đi 1% vào các chi phí, văn phòng, lương... thì còn được lãi ròng 1%.năm. Như thế có nghĩa rằng nếu cứ cho 100 công ty vay mỗi nơi 1 triệu USD thì mỗi năm ngân hàng sẽ lãi ròng 1 triệu USD (lãi 1% = $10.000 x 100 công ty). Nếu trong số 100 khách hàng này mà có một công ty "xù" thì năm ấy ngân hàng sẽ "huề vốn". Và nếu có hai công ty vỡ nợ thì đành... "mất cả chì lẫn chài".

Trở lại với cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á, trong những năm trước đây chính ngân hàng đã đổ quá nhiều tiền vào thị trường và giờ đây, lại hoảng hốt rút tiền trước nhất. Nhà ngân hàng thường được mô tả là "người cho ta mượn chiếc dù khi trời nắng, nhưng khi trời vừa đổ mưa thì đã vội đòi ngay chiếc dù ấy lại". Báo chí Singapore trong những ngày qua đã liên tục đăng tin hết ngân hàng này đến ngân hàng khác đã giảm bớt khoản tiền cho vay trong vùng và ca tụng đó là dấu hiệu tốt của các ngân hàng nước mình! Than ôi, thì cũng tốt thật đấy nhưng càng rút tiền chừng nào thì ngân hàng càng "bóp chết" các công ty nhanh chừng ấy mà thôi!

Và một khi rút lại được tiền nợ, những ngân hàng này đã chạy béng đi mất không còn dám tiếp tục cho vay, mở chứng từ để khách hàng có thể mua bán làm ăn. Việc các ngân hàng tranh nhau... "đòi lại dù" do đó cũng là một yếu tố khiến cuộc khủng hoảng kinh tế ngày càng trầm trọng.
 
NGÂN HÀNG TRONG CUỘC KHỦNG HOẢNG

Những cơn sốt nhà đất và cổ phiếu đã gây ra những ảnh hưởng lớn trong cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á. Tuy nhiên phải nói rằng nếu không có những số tiền khổng lồ từ nguồn đầu tư và của các ngân hàng đổ vào châu Á thì trị giá bất động sản và cổ phiếu đã không thể tăng vọt như thế được.

Từ cho vay nhảy qua đầu tư

Tại Singapore, như thường lệ tháng 8 là tháng mà các công ty loan báo kết quả hoạt động trong sáu tháng đầu năm. Tuy đã chuẩn bị tinh thần nhưng năm nay (2008), giới quan sát cũng đã không khỏi bàng hoàng trước những con số âm quá lớn so với dự đoán. Mức lãi của tất cả các ngân hàng lớn ở Singapore đã sụt khoảng 50% so với sáu tháng đầu năm ngoái vì phải khấu trừ những khoản lỗ nặng nề từ những món nợ cho vay khó đòi. Đối với các nước khác trong vùng thì tình hình còn bi đát hơn. Ngày 26/8 Ngân hàng Maybank lớn nhất của Malaysia công bố mức lãi sáu tháng đầu năm 1998 giảm 90%. Tại Indonesia và Thái Lan thì không còn nói chuyện lãi nhiều ít mà vấn đề cấp bách là làm sao để sống còn, vì một số ngân hàng bị lỗ lã nặng nề phải đóng cửa và một số khác buộc phải sáp nhập. Những lỗi lầm của các ngân hàng trong vùng bắt đầu từ đâu, và chúng ta có thể học được gì qua những bài học của họ?

Theo ý tôi thì lỗi đầu tiên là việc họ đã đi quá xa cái chức năng chính yếu của mình mà lần bước sang những lĩnh vực khác. Đã là một ngân hàng thương mại thì nhiệm vụ chính là nhận tiền ký thác và dùng tiền ấy cho vay. Tuy nhiên, trong thời kỳ các con rồng châu Á cất cánh vừa qua, có thể nói rằng nhiều ngân hàng đã từ lĩnh vực cho vay bước sang... đầu tư.

Trong việc cho vay, ngân hàng đòi hỏi món tiền nợ phải được hoàn trả sau một khoảng thời gian, kèm theo một số tiền lãi đã quy định. Người đi vay nếu có thành công lớn thì ngân hàng cũng không đòi hỏi thêm một đồng tiền lãi nào cả. Vì tiền cho vay là tiềm tạm lấy của các người ký thác ra dùng nên khi cho vay, ngân hàng phải hết sức cẩn thận, bắt buộc phải có thế chấp đầy đủ để nếu chẳng may công trình thất bại thì còn thoát được bằng cách bán các vật thế chấp để lấy lại vốn. Không có thế chấp thì ít ra ngân hàng cũng đòi hỏi phải có các bảo đảm cá nhân...

Việc đầu tư trái lại mang tính mạo hiểm, thường ít có điều kiện ràng buộc và thời gian ứng tiền cũng không xác định nhưng ngược lại thì người đầu tư có cơ hội được chia lãi nhiều hơn nếu công trình ấy trúng lớn. Việc đầu tư mang nhiều rủi ro hơn và do đó một ngân hàng thương mại thuần tuý không thể nào đem tiền ký thác của người khác ra để "đánh bạc" được. Tại các nước trong vùng, trong giai đoạn đầu khi các ngân hàng vừa thành hình thì việc cho vay hầu như hoàn toàn được đặt trên căn bản thế chấp. Hễ có của thế chấp thì ngân hàng mới cho vay và vai trò của ngân hàng lúc ấy tương đối đơn giản vì chỉ cần quan tâm đến các vật thế chấp là đủ. Khi có nhiều ngân hàng khác ra đời thì việc cạnh tranh trở nên gắt gao hơn. Người đi vay không ai muốn nộp nhiều thế chấp hoặc bảo đảm, nên nếu có mọt ngân hàng nào khác tỏ vẻ "nới tay" hơn thì họ sẽ đổ xô đến vay. Ngân hàng nào quá cứng rắn sẽ mất dần khách hàng khiến tiền ký thác bị ứ đọng. Càng muốn lãi nhiều, ngân hàng càng bớt khắt khe hơn trong việc cho vay. Từ chỗ cho vay trên căn bản "bảo thủ" với đầy đủ thế chấp, nhiều ngân hàng đã trở nên dễ dãi và tung tiền vào những dự án đầy rủi ro và hoạt động như những nhà đầu tư.

Điều nguy hiểm hiện tại của VN, do tính chất không minh bạch của thị trường nên đoạn giẫy chết dằng dai, đem lại hậu quả khó lường. Nếu minh bạch, quá trình gục ngã nhanh nhưng quá trình làm lại cũng nhanh hơn.

Chính vì lý do này nên hoạt động sát nhập 3NH gần đây được em đánh giá là tích cực, vì nó giúp giải quyết nhanh tình trạng hồ nghi, cảm giác mất an toàn về hệ thống
 
Để có cái nhìn toàn diện hơn về những biến động vĩ mô trong thời gian qua, chúng ta cùng nhau xem lại nguyên nhân, diễn biến, con đường đi qua khủng hoảng của các quốc gia châu Á và Nam Mỹ thời gian 1999 -2002.


Vào năm 1996, tỷ lệ đầu tư trên GDP nằm trong khoảng từ 30,8% ở Indonesia đến 41,7% ở Thái Lan. (Để so sánh, tỷ lệ đầu tư trên GDP ở Mỹ năm 1996 là 15%). Ở cả 4 nước, chính phủ cũng đang có thặng dư ngân sách. điều này có nghĩa là nguyên nhân trực tiếp của thâm hụt thương mại là đầu tư cao chứ không phải tiết kiệm thấp. Tuy nhiên tỷ lệ đầu tư cao này thực ra không phải là những tin tốt lành như hầu hết các nha hoạch định chính sách tại các nước này công bố. Về dài hạn tăng trưởng của một quốc gia không thể dựa vào chỉ một mình tăng trưởng vốn đầu tư.


[/B][/I]
...còn tiếp...

Riêng đầu tư, cuối năm vừa rồi các tỉnh trình CP, con số đầu tư công xin vốn đã là 500.000 tỷ.
So với GDP 100 tỷ $, thì con số trên đã là 25% rồi. Cộng thêm với đầu tư khối DN và xã hội thì cầm chắc trên 30% GDP. Cộng hưởng với yếu tố đổi mới công nghệ không có, bảo làm sao VN chả chết...

Hic, hic...
 
Bravo đại ca arrowhanoi! Topic này có lẽ sẽ rất hữu ích. Thi thoảng em cũng có nghiền ngẫm các quốc gia châu Á đợt khủng hoảng tiền tệ năm 97 này để so sánh, dự đoán diễn biến Việt Nam giai đoạn này. Khi nào rảnh rỗi em sẽ làm vài bài dịch và tổng hợp dưới góc độ của bọn Hedge Fund managers về vụ 97: khởi điểm từ việc một thằng trong quỹ Soros moi đâu ra cái ý tưởng về cú short đồng baht, quan chức NHTW của Thái đã ngây thơ lột truồng hết bí mật của chính phủ mình như nào, cũng như bọn cá mập HFMs đã phối hợp nhịp nhàng để hấp diêm đồng baht Thái ra sao... để ủng hộ topic của đại ca :D
 
Hình như đây là tư liệu "Cuộc khủng hoảng đã được báo trước" hả anh Around HN ?
 
Riêng đầu tư, cuối năm vừa rồi các tỉnh trình CP, con số đầu tư công xin vốn đã là 500.000 tỷ.
So với GDP 100 tỷ $, thì con số trên đã là 25% rồi. Cộng thêm với đầu tư khối DN và xã hội thì cầm chắc trên 30% GDP. Cộng hưởng với yếu tố đổi mới công nghệ không có, bảo làm sao VN chả chết...

Hic, hic...

Đề nghị các mode mở đại hội võ lâm với sự kết hợp của 3 trường phái:

FA của bác Arrow. TA của bác Giailang, bảng điện của colaido, Bluediamon + em và bác Tican....

Làm được thế này. Em nghĩ VC.vn sẽ kế tục được truyền thống vietcurrency. com khi xưa.

Không sợ không có người tài, chỉ sợ sự chia rẽ kém đoàn kết mà thôi.

Bỏ qua mọi điều về hình thể, lý lịch, thành phần, vùng địa phương, thành kiến cá nhân, tăng, ni, tục.......

Mọi người là 1. VC.vn in the one.
 
Last edited by a moderator:
Hình như đây là tư liệu "Cuộc khủng hoảng đã được báo trước" hả anh Around HN ?

Cuộc khủng hoảng cũng như chứng khoán thôi mà. Lúc lên có lúc xuống nhưng các nhà đầu tư chả bao giờ rút kinh nghiệm cả. Thị trường luôn mau quên. Điều hành các quốc gia có vẻ cũng vậy...Nước nào cũng bị ảnh hưởng từ bất động sản, chứng nhưng chả thoát được. Đến thằng Iran năm vừa rồi cũng sốt đất. Đúng là bó chiếu...

Mặt tích cực của VN là dân mình cực lạc quan, lại có thói quen tích trữ vàng dưới gầm giường nên có suy thoái cũng chả chết ngay được. Trong lúc dật dờ đó, nếu có cơ hội lại vươn lên rũ bùn sáng ngời.

Nhưng nhìn qua giai đoạn bây giờ lại ko ngon bằng thằng Indo 1997 (mình sẽ pót sau) . Dù nó cũng đẩy lãi suất lên 30% năm nhưng vì SME của nó rất khỏe nên nền kinh tế hồi lại khá tốt. SME của mình yếu quá nên lảo đảo một hồi rồi chui vào bụi tre nằm ngủ. Chả biết sống hay chết...hí hí...
 
Last edited by a moderator:
BÀI HỌC NHÌN LẠI

Làm ngân hàng thời nay không dễ

Sự cạnh tranh đã khiến ngân hàng bớt đặt nặng vào thế chấp mà chú trọng nhiều hơn đến khả năng trả nợ của các dự án cho vay. Nghệ thuật cho vay từ đó trở nên phức tạp hơn. Làm ngân hàng thời nay không còn dễ dàng như xưa mà đòi hỏi phải có kiến thức và kinh nghiệm rộng lớn. Điều này đưa đến nhược điểm thứ hai là vấn đề thiếu cán bộ chuyên môn trong ngành ngân hàng.

Tại các nước Âu Mỹ, ngân hàng đã phát triển hơn trăm năm nay nên sự đào tạo cán bộ và việc thăng quan tiến chức trong ngành đã tiến hành rất chính quy chứ không theo lối "mỳ ăn liền" như ở các nước châu Á. Bước vào một ngân hàng ở châu Âu chẳng hạn, ta có thể tìm thấy những nhà kinh doanh ngân hàng lăn lộn trong nghề đến bạc đầu mà cũng vẫn chỉ là một chuyên viên tín dụng. Trong khi đó tại các nước trong vùng thì lực lượng chuyên viên ngân hàng còn rất trẻ. Khi làm Tổng giám đốc của Singapore Finance, mỗi năm thường cho tuyển hơn một chục sinh viên mới tốt nghiệp đại học vào làm việc, tôi để ý rằng đối với lứa trẻ, tuy chỉ vừa ra trường với bằng cử nhân và làm việc chưa có mấy kinh nghiệm mà trung bình cứ sau hai năm, nếu không cho họ một chức vụ gì thật kêu và có gắn chữ "giám đốc" (như phó giám đốc, phụ tá giám đốc gì đó) thì y như là họ sẽ từ chức để chạy qua một ngân hàng khác.

Hầu hết những vị giám đốc quá trẻ này đều chưa có "kinh nghiệm chiến trường" nhưng đã được giao cho những số tiền quá lớn, cáng đáng những trách nhiệm vượt sức mình. Ngoài kiến thức học hỏi từ nhà trường và sách vở, một nhà ngân hàng chuyên nghiệp cần có nhiều kinh nghiệm mới quán xuyến được công việc để tránh không vung tiền vào những khoản cho vay xấu, và để có thể lèo lái ngân hàng mình qua cơn khủng hoảng. Thực trạng là thế, nhưng biết làm sao được khi kinh tế phát triển quá nhanh mà người có khả năng thì thiếu!

Một nhược điểm nữa của nhiều ngân hàng trong vùng là đã bừa bãi đổ tiền cho vay vào những công ty liên hệ. Hầu như tập đoàn lớn nào cũng muốn có trong tay một ngân hàng hay một công ty tài chính. Đối với họ, ngân hàng là công cụ để hút vốn chuyển về tài trợ cho các công ty mình, giúp tập đoàn tự phát triển mà không cần tìm nguồn tài trợ bên ngoài. Trong thập niên 1960, khi luật lệ ngân hàng chưa phân mình, rất nhiều tập đoàn tư nhân trong vùng đã thành lập ngân hàng với mục đích này. Họ lợi dụng giai đoạn "nước đục" để "thả câu" cho những công ty của bà con bạn bè vay quá cẩu thả, làm nhiều ngân hàng sụp đổ khiến bao người ký thác mất tiền.

Nhằm ngăn chặn tình trạng lạm dụng này, chính phủ các nước trong vùng đã phải cải tổ đạo luật ngân hàng. Trong tất cả các nước, có lẽ Singapore là đã áp dụng những biện pháp cứng rắn nhất để tạo nên một bức tường hoàn toàn cách biệt giữa ngân hàng và các công ty cùng tập đoàn. Luật Ngân hàng và Công ty Tài chính của Singapore nêu rõ những tiêu chuẩn rất gắt gao về mặt quản lý. Chẳng hạn như khi muốn cho một công ty liên hệ vay một số tiền, ngân hàng phải trình lên Ngân hàng Trung ương hoặc Cơ quan quản trị thị trường chứng khoán để xin phép và phải trả lời hàng tá các câu hỏi hóc búa đặt ra. Tất cả những món nợ cho thân nhân của ban quản trị, ban giám đốc và nhân viên vay cũng đều phải được kê khai rõ ràng. Những quy định này gắt gao đến nỗi các công ty trong tập đoàn thường rất ngại đi vay từ các ngân hàng bà con mà đành phải tìm các nguồn vay khác.

Nói chung, nghề cho vay không phải là dễ dàng vì có quá nhiều rủi ro. Lấy một thí dụ tiêu biểu, ngân hàng nhận tiền ký thác với lãi suất 6%/năm và cho vay được 8%/năm. Trừ đi 1% vào các chi phí, văn phòng, lương... thì còn được lãi ròng 1%.năm. Như thế có nghĩa rằng nếu cứ cho 100 công ty vay mỗi nơi 1 triệu USD thì mỗi năm ngân hàng sẽ lãi ròng 1 triệu USD (lãi 1% = $10.000 x 100 công ty). Nếu trong số 100 khách hàng này mà có một công ty "xù" thì năm ấy ngân hàng sẽ "huề vốn". Và nếu có hai công ty vỡ nợ thì đành... "mất cả chì lẫn chài".

Trở lại với cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á, trong những năm trước đây chính ngân hàng đã đổ quá nhiều tiền vào thị trường và giờ đây, lại hoảng hốt rút tiền trước nhất. Nhà ngân hàng thường được mô tả là "người cho ta mượn chiếc dù khi trời nắng, nhưng khi trời vừa đổ mưa thì đã vội đòi ngay chiếc dù ấy lại". Báo chí Singapore trong những ngày qua đã liên tục đăng tin hết ngân hàng này đến ngân hàng khác đã giảm bớt khoản tiền cho vay trong vùng và ca tụng đó là dấu hiệu tốt của các ngân hàng nước mình! Than ôi, thì cũng tốt thật đấy nhưng càng rút tiền chừng nào thì ngân hàng càng "bóp chết" các công ty nhanh chừng ấy mà thôi!

Và một khi rút lại được tiền nợ, những ngân hàng này đã chạy béng đi mất không còn dám tiếp tục cho vay, mở chứng từ để khách hàng có thể mua bán làm ăn. Việc các ngân hàng tranh nhau... "đòi lại dù" do đó cũng là một yếu tố khiến cuộc khủng hoảng kinh tế ngày càng trầm trọng.

Việt Nam: Quá trình tăng trưởng ồ ạt, nâng tổng tài sản thần tốc dẫn đến các NH phải tăng vốn, mở rộng địa bàn hoạt động, tăng nhân sự liên tục. Quá trình đó dẫn đến chất lượng hệ thống kém, nhân sự kém, quản trị rủi ro kém (do áp lực cạnh tranh) nên đã dẫn tới nợ xấu gia tăng như hiện nay. Sau đó là thắt chặt tín dụng...Quá giống nội dung ở phía trên...

Về mặt đạo đức ngân hàng thì Việt Nam mình xuống cấp nhanh hơn. Các cán bộ tín dụng dễ dàng nhận tiền để make up bộ hồ sơ tín dụng, thổi phồng giá trị thế chấp, tìm mọi cách để vẽ dự án hợp lý và giải ngân. Sau khi cầm tiền, rất nhiều người thuyên chuyển qua chỗ khác và tiếp tục hành trình kiếm tiền...Không ai giàu nhanh như mấy ông này, toàn buôn không vốn mà lại lời cao...

Riêng về mục các đạo luật với Ngân hàng: hình như bây giờ mình vẫn chưa xem xét việc hạn chế vạy trong tập đoàn thì phải...
 
Last edited by a moderator:
Back
Top